Bản án 110/2020/HSST ngày 23/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 110/2020/HSST NGÀY 23/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 125/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Cao Văn M (tên gọi khác: Nguyễn Văn Đ), sinh năm 1996 tại tỉnh Cà Mau.

HKTT: ấp R, xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau.

Nơi cư trú: ấp Đ, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không Trình độ học vấn: 01/12. Nghề nghiệp: Không.

Con ông Cao Bình E, sinh năm: 1976 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm: 1976. Bị cáo có 03 anh chị E, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình.

Bị cáo chưa có vợ và con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N.

2. Hồ Quốc K, sinh ngày 26/9/2002 tại thành phố Cần Thơ. HKTT: khu vực Q, phường T, quận T, thành phố Cần Thơ Nơi cư trú: ấp Đ, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Thiên Chúa Trình độ học vấn: 7/12. Nghề nghiệp: Không.

Con ông Hồ Quốc K, sinh năm: 1971 và bà Nguyễn Thị Mỹ C, sinh năm: 1977.

Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Bị cáo chưa có vợ và con.

Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Quốc K: bà Nguyễn Thị Hoài Th– Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

Anh Trần Quốc K, sinh năm: 1998. Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Anh Võ Trọng P, sinh năm: 1999. Địa chỉ: ấp Đ, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Anh Huỳnh Văn T, sinh năm: 1998. Địa chỉ: ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. (Các bị cáo và người bào chữa cho bị cáo K bà T có mặt; những người làm chứng vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ 31 phút, ngày 31 tháng 3 năm 2020 tại phòng trọ của Trần Quốc K thuộc ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai, Công an huyện N tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ của Trần Quốc K phát hiện có 08 đối tượng Cao Văn M, Hồ Quốc K, Trần Quốc K, Trần Thị Ngọc T, Võ Trọng P, Huỳnh Thanh T, Trần Duy K và Huỳnh Văn T, kiểm tra trong phòng trọ của Trần Quốc K có 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, Cao Văn M và Hồ Quốc K khai là ma túy đá của M và Hồ Quốc K mua để sử dụng chung.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen có gắn sim số 0936.264.947;

01 hộp quẹt; 01 kìm cắt móng tay nhỏ; 01 bình nhựa gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh.

Tại Bản kết luận giám định số 665/KLGĐ-PC09 ngày 06 tháng 4 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai xác định: Mẫu tinh thể màu trắng có khối lượng 0,3720 gam, loại: Methamphetamine.

Ngày 08 tháng 4 năm 2020, Cơ quan điều tra Công an huyện N đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với Cao Văn M, Hồ Quốc K để điều tra.

Quá trình điều tra Cao Văn M, Hồ Quốc K khai nhận: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 31 tháng 3 năm 2020, Cao Văn M, Hồ Quốc K cùng với các đối tượng Trần Quốc K, sinh năm 1998, địa chỉ: ấp 2, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ; Trần Thị Ngọc T, sinh năm 2005, địa chỉ: xã X, huyện T, thành phố Cần Thơ; Võ Trọng P, sinh năm 1999, địa chỉ: ấp P, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; Huỳnh Thanh T, sinh năm 2000, địa chỉ: ấp T, xã B, huyện H, tỉnh Kiên Giang; Trần Duy K, sinh năm 2002, địa chỉ: ấp V, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang và Huỳnh Văn T, sinh năm 1998, địa chỉ: ấp B, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai cùng nhau đến phòng trọ của Trần Quốc K thuộc ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai để tổ chức ăn uống. Trong lúc ngồi ăn thì Cao Văn M rủ mọi người cùng nhau góp tiền mua ma túy về sử dụng chung. Sau đó, Hồ Quốc K đồng ý đưa cho M số tiền 100.000 đồng để mua ma túy, các đối tượng khác không nói gì và cũng không góp tiền. Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, M gọi điện thoại cho nam thanh niên tên Q (chưa rõ nhân thân) hỏi mua 01 tép ma túy với giá 200.000 đồng, Q đồng ý. Đến 23 giờ cùng ngày, Q đến phòng trọ của K đưa cho M 01 tép ma túy. M lấy ra một ít ma túy rồi cùng với Hồ Quốc K, Trần Quốc K, P, T, Duy K và T sử dụng, riêng T không sử dụng. Số ma túy còn lại M hàn kín lại rồi cất giấu dưới nệm trong phòng của Trần Quốc K thì bị Công an kiểm tra phát hiện và lập biên bản phạm tội quả tang như đã nêu ở trên.

Tại cáo trạng số 78/CT-VKS-TB ngày 24 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố Cao Văn M, Hồ Quốc K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) và Công văn số 492/CV.VKS-NT ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng trên.

Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,3385 gam được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 665/KLGĐ-PC09 ngày 07/4/2020; 01 sim số 0936264947; 01 hộp quẹt; 01 kìm cắt móng tay nhỏ; 01 bình nhựa gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của Cao Văn M là phương tiện dùng vào việc phạm tội tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với nam thanh niên tên Q đã bán ma túy cho Cao Văn M, do chưa xác định nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

Đối với Trần Quốc K; Võ Trọng P; Huỳnh Thanh T; Trần Duy K; Huỳnh Văn T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chánh là đúng quy định.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung truy tố tại bản cáo trạng và phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo đề nghị:

Căn cứ Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Cao Văn M từ 18 tháng đến 20 tháng tù.

Căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 91; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Hồ Quốc K từ 12 tháng đến 14 tháng tù.

- Người bào chữa cho bị cáo K bà T trình bày: Thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017). Khi phạm tội bị cáo K dưới 18 tuổi, trình độ học vấn thấp, nhận thức về pháp luật còn hạn chế nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 98; Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng bổ sung các Điều 98; Điều 101 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), để xem xét trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hồ Quốc K.

- Các bị cáo Cao Văn M, Hồ Quốc K không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu. Các bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố; hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[1.2] Về sự vắng mặt của người làm chứng:

Người làm chứng được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai trong quá trình điều tra, không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố các bị cáo ra trước tòa, cho thấy các bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 31 tháng 3 năm 2020 tại phòng trọ của Trần Quốc K thuộc ấp P, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Cao Văn M và Hồ Quốc K đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,3720 gam Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện N phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của các bị cáo Cao Văn M, Hồ Quốc K đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

nh vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, trực tiếp là hoạt động tàng trữ trái phép và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo phạm tội mang tính đồng phạm xong ở mức độ giản đơn, bị cáo Cao Văn M là người trực tiếp mua ma túy và rủ Hồ Quốc K, Trần Quốc K, Trần Thị Ngọc T, Võ Trọng P, Huỳnh Thanh T, Trần Duy K và Huỳnh Văn T cùng sử dụng nên vai trò của bị cáo Cao Văn M cao hơn bị cáo Hồ Quốc K.

Tình tiết tăng nặng: Không.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Cao Văn M, Hồ Quốc K thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo có nhân thân tốt là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xemxét trách nhiệm hình sự cho các bị cáo và cũng để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước. Ngoài ra, đối với bị cáo Hồ Quốc K khi thực hiện hành vi phạm tội của mình là người dưới 18 tuổi, trình độ học vấn thấp, nhận thức về pháp luật còn hạn chế nên áp dụng Điều 90; Điều 91; Điều 98 và Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hồ Quốc K.

[4] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,3385 gam được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 665/KLGĐ-PC09 ngày 07/4/2020; 01 sim số 0936264947; 01 hộp quẹt; 01 kìm cắt móng tay nhỏ; 01 bình nhựa gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của Cao Văn M là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

[5] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Xét quan điểm của Người bào chữa cho bị cáo K phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 và điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Cao Văn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Cao Văn M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 4 năm 2020.

2. Căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 90; điều 91; Điều 98; Điều 101 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Hồ Quốc K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Hồ Quốc K 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 4 năm 2020.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,3385 gam được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 665/KLGĐ-PC09 ngày 07/4/2020; 01 sim số 0936264947; 01 hộp quẹt; 01 kìm cắt móng tay nhỏ; 01 bình nhựa gắn ống hút nhựa và ống thủy tinh.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của Cao Văn M là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

Vật chứng nêu trên đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 6 năm 2020.

4. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người bào chữa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2020/HSST ngày 23/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về