Bản án 110/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 110/2019/HS-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 112/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 09 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 09 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đặng Bá Th, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1969 tại xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: khối M, thị trấn Qu, huyện Qu, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hoá: 10/10; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Bá Ng (đã chết) và bà Phan Thị X; có vợ Ngô Thị B và 2 con; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ: không; tạm giam: không. Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

2. Ngô Ngọc T, sinh ngày 29 tháng 02 năm 1976 tại xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm M, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Sỹ T (đã chết ) và bà Trần Thị T; có vợ Trương Thị H và 02 con; tiền án: không; tiền sự : không; tạm giữ: không; tạm giam: không. Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Ngô Ngọc Tuấn: Bà Vũ Thị Hồng – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. ( có mặt) 3. Trần Văn Th, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1976 tại xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm S, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Ch và bà Trần Thị Th, có vợ Trần Thị Th và 03 con; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ: không; tạm giam: không. Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ ngày 09/02/2019 các đối tượng Đặng Bá Th, sinh năm 1969, trú tại khối M thị trấn Qu, huyện Qu, tỉnh Nghệ An; Trần Văn Th, sinh năm 1976, trú tại xóm S, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An và Ngô Ngọc T, sinh năm 1976, trú tại xóm M, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An đến nhà Nguyễn Văn L, sinh năm 1963, trú tại xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An để ăn cơm, uống rượu. Các đối tượng sử dụng 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân có sẵn ở nhà L để làm công cụ đánh bạc. Cả 04 đối tượng thống nhất đánh bạc dưới hình thức đánh bài phỏm, tỷ lệ ù mỗi ván 50.000 đồng. Các đối tượng trên đánh bạc được khoảng 30 phút thì có Hoàng Danh M, sinh năm 1958, trú tại xóm M, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An đến nhà L chơi và cùng tham gia đánh bạc. 05 đối tượng thống nhất chuyển sang hình thức đánh bài liêng, trống cửa mỗi ván là 10.000 đồng. Đánh bạc đến 22 giờ cùng ngày thì M mệt nên lên phòng ngủ tầng 2 của nhà L ngủ trước.

Trong vụ án này, các đối tượng đánh bạc dưới hình thức đánh bài phỏm như sau: Có 04 người tham gia đánh bạc ngồi thành vòng tròn khép kín, bắt đầu một ván bài phỏm, người chơi đánh đầu tiên sẽ được phát 10 lá bài, ba người chơi còn lại mỗi người được phát 09 lá bài, số lá bài còn lại sau khi phát sẽ được đặt ở giữa bàn chơi ( gọi là bài nọc). Theo chiều kim đồng hồ, người đánh đầu sẽ đánh ra 01 lá bài cho người chơi tiếp theo, người chơi tiếp theo sẽ có 02 trường hợp.

Thứ nhất: nếu lá bài vừa được đánh hợp với một số lá bài của người chơi đó đang có tạo thành phỏm ( bộ ba lá bài trở lên cùng chất rô hoặc cơ, bích, chuồn và có số liên tiếp nhau hoặc bộ ba lá bài trở lên cùng số thì gọi là phỏm ) thì lá bài đó sẽ bị ăn ( tức là người chơi đó sẽ giữ lá bài đó lại) và người chơi đó đánh tiếp một lá bài khác cho người chơi kế tiếp.

Thứ hai: nếu người chơi tiếp theo không ăn được lá bài đó thì người chơi đó sẽ phải bốc một lá bài từ bài nọc và đánh cho người chơi kế tiếp một lá bài.

Cứ tiếp tục đánh như vậy cho đến khi hết lượt đánh. Ván bài sẽ kết thúc nếu trong ván bài có người chơi “Ù” , nghĩa là bộ bài của người chơi đó không có lá bài rác mà các lá bài đều tạo thành phỏm. Nếu không có người nào chơi ù thì mỗi người chơi sau bốn lượt đánh ván bài sẽ kết thúc, trước khi đánh lá bài cuối cùng người chơi phải hạ tất cả các phỏm bài họ đang có xuống bàn, nếu bài không có phỏm nào gọi là bài “ cháy” và người chơi có bài “ cháy”. Nếu lá bài cuối cùng của người chơi đánh cho người chơi tiếp theo bị người chơi tiếp theo đó “ăn” thì gọi là bị ăn “chốt”, người bị ăn chốt sẽ được bốc thêm một lá bài và được đánh thêm một lượt nữa. Sau khi bài nọc đã bốc hết và lá bài cuối cùng đánh xong thì tất cả những người chơi sẽ tính thắng thua với nhau bằng cách tính tổng điểm tất cả các lá bài rác còn lại của họ ( trong đó: A=1, J=11, Q=12, K=13). Người chơi có điểm thấp nhất sẽ là người thắng cuộc ( nếu hai người có điểm bằng nhau thì người hạ bài trước sẽ là người thắng cuộc) và được nhận từ người chơi về thứ 2 số tiền 10.000 đồng, nhận từ người chơi về thứ ba số tiền 20.000 đồng, nhận từ người chơi về thứ tư số tiền 30.000 đồng, người chơi nào có bài “cháy” sẽ phải trả cho người thắng cuộc số tiền 40.000 đồng, người chơi bị “ăn” chốt sẽ phải trả cho người ăn chốt số tiền 40.000 đồng. Người “ù” sẽ nhận được từ từng người chơi còn lại mỗi người 50.000 đồng. Sau khi tính thắng, thua xong, người thắng cuộc sẽ phát bài đánh ván mới và người đó là người đánh đầu tiên.

Các đối tượng đánh bạc dưới hình thức đánh bài liêng như sau: những người tham gia đánh bạc ngồi thành vòng tròn khép kín. Những người chơi lựa chọn người phát bài, người phát bài sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân phát cho mỗi người chơi ba lá bài, trước khi phát bài mỗi người đặt cược số tiền 10.000 đồng gọi là trống cửa 10.000 đồng, sau đó từng người chơi sẽ bốc bài của mình lên, từng người chơi sẽ lần lượt đánh theo chiều kim đồng hồ và bắt đầu từ người thắng ván trước ( nếu là ván đầu tiên thì bắt đầu từ người chia bài), mỗi người chơi khi đến lượt sẽ có các lựa chọn như sau:

-Úp bài: bỏ ván bài hiện tại và sẽ bị thua số tiền đã đặt cược trong các vòng chơi trước.

-Theo: tiếp tục ván bài, nếu như có người tố trước đó thì phải bỏ thêm tiền vào tẩy ( tổng số tiền đặt cược chung trong ván) bằng với số tiền người chơi trước đã tố.

-Tố (hay còn gọi là phạt): bao gồm “theo” và người chơi đặt cược thêm số tiền cao hơn số tiền người chơi trước đã đặt cược, mức tố tối đa không quá 100.000 đồng.

Ván bài kết thúc khi chỉ còn một người không úp bài ( người thắng cuộc) hoặc nếu chỉ còn một người theo vòng tố thì người đó thắng cuộc, nếu còn lại ít nhất 02 người chơi theo vòng tố thì tất cả những người chơi đó sẽ hạ bài so sánh điểm, bài người chơi nào cao hơn sẽ thắng và người chơi đó được lấy tất cả số tiền trong tẩy.

Cách so bài liêng: các bộ bài liêng xếp theo thứ tự từ lớn đến bé như sau:

-Sáp: Ba lá bài có số giống nhau, nếu 2 người chơi cùng được sáp sẽ so sánh giá trị lá theo thứ tự 2<3<..

-Ảnh: nếu bộ bài không phải là sáp và liêng nhưng tất cả ba lá bài đều là đầu người ( J, Q, K) thì gọi là ảnh, ảnh có giá trị bằng nhau.

- Không phải là các bộ đặc biệt trên người chơi sẽ cộng giá trị các lá bài để tính điểm ( A 1 điểm; 10,J, Q,K tính là 0 điểm). Trường hợp điểm lớn hơn 9 thì chỉ tính hàng đơn vị.

Bài sẽ so sánh như sau: Sáp > liêng>ảnh>9>8…>1>0 Nếu giá trị bài của ít nhất 02 người chơi bằng nhau thì số tiền trong tẩy sẽ được chia đều cho những người đó ( những người thắng cuộc), ván bài đó gọi là ván bài mua. Sau khi chia hết số tiền trong tẩy cho những người chơi còn lại trong ván bài mua thì tất cả những người chơi sẽ bỏ ra số tiền 10.000 đồng để tiếp tục đánh ván tiếp theo.

Nguyễn Văn L, Trần Văn Th, Đặng Bá Th và Ngô Ngọc T đánh bạc với nhau đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang. Thu giữ phía sau máy lọc nước số tiền 310.000 đồng và rổ rau bên cạnh chiếu bạc 710.000 đồng, số tiền này là tiền của Ngô Ngọc T sử dụng đánh bạc, quá trình bắt giữ T đã lấy số tiền đó nhét vào máy lọc nước và ném vào rổ rau; thu giữ 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh đã qua sử dụng, 01 chiếc chiếu nhựa màu xanh đã qua sử dụng. Thu giữ trên người các đối tượng tổng số tiền 3.475.000 đồng, trong đó thu giữ trên người của Đặng Bá Th 1.730.000 đồng, của Nguyễn Văn L 1.730.000 đồng, của Trần Văn Th 15.000 đồng.

Ngày 10/02/2019, Hoàng Danh M đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Đi với đối tượng Hoàng Danh M và Nguyễn Văn L quá trình điều tra các đối tượng đã bỏ trốn khỏi địa phương.

Quá trình xác minh, Ngô Ngọc T xuất trình bệnh án tâm thần của bản thân. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành đã tiến hành trưng cầu giám định tâm thần đối với T. Tại bản kết luận pháp y tâm thần số 221 ngày 02/07/2019 của Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận “ Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định, Ngô Ngọc T bị bệnh rối loạn phân liệt. Bệnh ở giai đoạn ổn định. Tại các thời điểm trên Ngô Ngọc T đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi” Quá trình xác minh, làm rõ Cơ quan điều tra đã chứng minh được trong quá trình đánh bạc các đối tượng đã sử dụng số tiền vào mục đích đánh bạc như sau: Nguyễn Văn L sử dụng 1.600.000 đồng; Đặng Bá Th sử dụng 1.400.000 đồng; Ngô Ngọc T sử dụng 1.100.000 đồng; Trần Văn Th sử dụng 560.000 đồng; Hoàng Danh M sử dụng 500.000 đồng. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc là 5.160.000 đồng.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành, các đối tượng đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các đối tượng phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu đã xác minh thu thập được.

Vật chứng: Số tiền 5.160.000 đồng các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh và 1 chiếc chiếu nhựa màu xanh đã qua sử dụng Tại bản cáo trạng số 117/CT-VKS-HS, ngày 14 tháng 09 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành đã truy tố Đặng Bá Th, Ngô Ngọc T và Trần Văn Th về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58; điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Đặng Bá Th từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng về tội “ đánh bạc” .

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58; điểm i, s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Ngô Ngọc T từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng về tội “ đánh bạc”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58 ; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Trần Văn Th từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng về tội “ đánh bạc”..

Vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh và 01 chiếc chiếu nhựa màu xanh.

Tch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 5.160.000 đồng.

Án Phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí tòa án.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Người bào chữa cho bị cáo T: Thống nhất tội danh và các tình tiết giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đề nghị. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: bị cáo phạm tội lần đầu, khai báo thành khẩn, nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình của bị cáo, bị cáo bị rối loạn tâm thần nên áp dụng Điều 34, Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử bị cáo T với hình thức cảnh cáo.

Các bị cáo đề nghị:

Bị cáo Đặng Bá Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được mức án nhẹ nhất.

Bị cáo Ngô Ngọc T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ để bị cáo sớm hòa nhập với cộng đồng, xã hội.

Bị cáo Trần Văn Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 20 giờ ngày 09/02/2019 các đối tượng Đặng Bá Th, sinh năm 1969, trú tại khối M thị trấn Qu, huyện Qu, tỉnh Nghệ An; Trần Văn Th, sinh năm 1976, trú tại xóm S, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An và Ngô Ngọc T, sinh năm 1976, trú tại xóm M, xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An đến nhà Nguyễn Văn L, sinh năm 1963, trú tại xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An để uống rượu. Tại đây các đối tượng rủ nhau đánh bài phỏm ăn tiền, tỷ lệ ù mỗi ván 50.000 đồng. Cả 04 đối tượng thống nhất và đánh bài phỏm ăn tiền được khoảng 30 phút thì có Hoàng Danh M, sinh năm 1958, trú tại xóm M, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An đến nhà L chơi và cùng tham gia đánh bạc. 05 đối tượng thống nhất chuyển sang hình thức đánh bài liêng ăn tiền, trống cửa mỗi ván là 10.000 đồng. Đánh bạc đến 22 giờ thì M mệt nên lên tầng 2 của nhà L ngủ trước, còn L, Th, Th, T tiếp tục đánh bạc với nhau đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang và thu giữ 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh, 01 chiếc chiếu nhựa màu xanh, 310.000 đồng ở phía sau máy lọc nước, 710.000 đồng ở sau rổ rau bên cạnh chiếu bạc, số tiền trên là của Ngô Ngọc T sử dụng đánh bạc, quá trình bắt giữ T đã nhét sau máy lọc nước và ném vào rổ rau. Thu giữ tiền trên người Th 1.730.000 đồng, L 1.730.000 đồng, Th 15.000 đồng.

Quá trình xác minh, làm rõ Cơ quan điều tra đã chứng minh được trong quá trình đánh bạc các đối tượng đã sử dụng số tiền vào mục đích đánh bạc như sau: Nguyễn Văn L sử dụng 1.600.000 đồng; Đặng Bá Th sử dụng 1.400.000 đồng; Ngô Ngọc T sử dụng 1.100.000 đồng; Trần Văn Th sử dụng 560.000 đồng; Hoàng Danh M sử dụng 500.000 đồng. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc là 5.160.000 đồng.

Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ngô Ngọc T xuất trình bệnh án tâm thần của bản thân. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành đã tiến hành trưng cầu giám định tâm thần đối với T. Viện pháp y tâm thần trung ương đã giám định và kết luận “ Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định, Ngô Ngọc T bị bệnh rối loạn phân liệt. Bệnh ở giai đoạn ổn định. Tại các thời điểm trên Ngô Ngọc T đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi” . Vì vậy T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở xác định các bị cáo đánh bài phỏm, liêng được thua bằng tiền. Do đó các bị cáo đã phạm tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Số tiền các bị cáo đánh bạc là 5.160.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là ít nghiêm trọng, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, đến nếp sống văn minh của xã hội, gây ra tan cữa nát nhà, do đánh bạc mà dẫn đến các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp giật, cho vay nặng lãi ...., gây mất an ninh, trật tự trên địa bàn, quần chúng nhân dân bất bình. Cần phải xử lý nghiêm, tuy nhiên các bị cáo cùng thực hiện một tội phạm, đều là người thực hành nên đồng phạm giản đơn, cần phân hóa vai trò của các bị cáo khi xem xét mức hình phạt.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Bá Th: Có số tiền tham gia đánh bạc 1.400.000 đồng nhưng bị cáo là người có nhân thân tốt ; khai báo thành khẩn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Có bố Đặng Bá Ng là liệt sĩ, được Nhà nước tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng ba vì đã có thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong chống Mỹ cứu nước, có bà nội là Trần Thị Ng được Nhà nước truy tặng danh hiệu bà mẹ việt nam anh hùng, hiện nay bị cáo thờ cúng liệt sĩ và mẹ Việt Nam anh hùng; gia đình bị cáo có điều kiện, có khả năng thi hành án.

Do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58; điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt hình phạt tiền với mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải chấp hành mức tiền từ 15 triệu đến 20 triệu đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo Ngô Ngọc T: Có số tiền tham gia đánh bạc 1.100.000 đồng nhưng bị cáo là người có nhân thân tốt; khai báo thành khẩn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có bệnh rối loạn phân liệt bị hạn chế khả năng nhận thức; có bố và mẹ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng huy chương kháng chiến hạng nhì vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội.

Do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58; điểm i, s, q khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt hình phạt cải tạo không giam giữ với mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải chấp hành từ 09 tháng đến 12 tháng. Cho miễn việc khấu trừ thu nhập trong thời gian chấp hành án vì bị cáo hưởng chế độ trợ cấp xã hội.

Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn Th: Có số tiền tham gia đánh bạc 560.000 đồng nhưng bị cáo là người có nhân thân tốt; khai báo thành khẩn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, nơi làm việc ổn định, bị cáo có khả năng tự cải tạo, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội và cho bị cáo hưởng án treo.

Do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 3 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo với mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải chấp hành từ 06 tháng đến 09 tháng.

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Trần Văn Th từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

Đi với Nguyễn Văn L và Hoàng Danh M đã bỏ trốn khỏi địa phương. Bắt được sẽ xử lý sau.

[3] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đúng theo quy trình, thủ tục, thẩm quyền do Bộ luật tố tụng Hình quy định là hợp pháp.

[4] Vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh, 01 chiếc chiếu nhựa màu xanh đã qua sử dụng, tiền mặt 5.160.000 đồng.

Xét 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh và 01 chiếc chiếu nhựa màu xanh không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền mặt 5.160.000 đồng cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước như quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58; điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Đặng Bá Th 15.000.000,00 (Mười lăm triệu) đồng sung quỹ Nhà nước về tội “Đánh bạc”. Tiền phạt được nộp ba lần trong thời hạn ba tháng kể từ ngày án có hiệu lực.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58 ; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khon 1, 2, 3 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Trần Văn Th 06 ( Sáu ) tháng tù về tội “đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, phạt tiền 3.000.000,00 ( ba triệu) đồng sung quỹ Nhà nước. Tiền phạt được nộp một lần khi án có hiệu lực.

Giao Trần Văn Th cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp Trần Văn Th thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, Trần Văn Th cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc Trần Văn Th phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 17, 58 ; điểm i, s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Ngô Ngọc T 12 ( mười hai ) tháng tháng cải tạo không giam giữ về tội “ đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Cơ quan, tổ chức được giám sát giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao Ngô Ngọc T cho Ủy ban nhân dân xã X, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình Ngô Ngọc T có trách nhiệm phối hợp với Chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục T.

- Vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Tch thu, tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân màu xanh và 01 chiếc chiếu nhựa màu xanh đã qua sử dụng (Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành quản lý) Tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 5.160.000 ( năm triệu, một trăm sáu mươi nghìn đồng) (đã chuyển vào tài khoản số 39.490.104.774.600.000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Thành tại Kho bạc nhà nước Yên Thành ngày 08/08/2019)  

- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 11; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Đặng Bá Th, Trần Văn Th, Ngô Ngọc T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2019/HS-ST ngày 14/10/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:110/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về