Bản án 110/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 110/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 250/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 119/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng N (tên thường gọi: N1), sinh năm: 1986 (Có mặt).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Thạnh T1, xã Thạnh L, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

Đa chỉ hiện tại: Ấp Đ, xã B, huyện L, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn: Anh Phạm Tấn X, sinh năm: 1984 (Vắng mặt).

Đa chỉ: Ấp Thạnh T1, xã Thạnh L, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/5/2019 và quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị Hồng N là nguyên đơn trình bày:

Chị và anh Phạm Tấn X tự nguyện kết hôn năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh L, huyện G, tỉnh Kiên Giang, chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh X thay đổi tính tình thường đánh đập chị và sống thiếu trách nhiệm, do không thể chung sống với anh X được nữa nên tháng 4 năm 2018, chị về nhà cha, mẹ ruột ở sống ly thân với anh X cho đến nay.

Quá trình sống chung chị và anh X chưa có con chung. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy chị không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh X được nữa. Do đó, yêu cầu được ly hôn với anh X.

Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Phạm Tấn X là bị đơn: Không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị N, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để Tòa án xem xét.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của Người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; Ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ; thời hạn xét xử và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, vẫn còn vi phạm về thời hạn xét xử theo Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị khắc phục trong thời gian tới.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự như: Thành phần Hội đồng xét xử, nguyên tắc xét xử; trình tự, thủ tục phiên tòa sơ thẩm đảm bảo tính khách quan. Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo Điều 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của các đương sự: Chị N đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh X chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị Hồng N và anh Phạm Tấn X kết hôn năm 2006 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Quá trình chung sống chị N và anh X đã xảy ra những mâu thuẫn nhưng không thể tự hàn gắn được và sống ly thân với nhau từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay. Xét thấy, chị N xác định không còn tình cảm với anh X, nếu kéo dài tình trạng hôn nhân của anh, chị cũng không có kết quả tốt đẹp, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị N được ly hôn với anh X.

Về con chung: Chị N xác định không có con chung với anh X nên không yêu cầu giải quyết; Về tài sản chung và nợ chung: Chị N không yêu cầu giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Chị Nguyễn Thị Hồng N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Phạm Tấn X. Đây là tranh chấp về ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Anh Phạm Tấn X là bị đơn có nơi cư trú tại huyện G, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh X như: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, anh X không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị N, không nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để được xem xét, không đến Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải, phiên tòa là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị N giao nộp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác, anh X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh X.

[2]. Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng N và anh Phạm Tấn X kết hôn năm năm 2006 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Thạnh L, huyện G, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 24/4/2006 nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp.

Quá trình chung sống chị N và anh X xảy ra những mâu thuẫn theo như chị N khai nhưng anh, chị không thể tự hàn gắn tình cảm vợ chồng với nhau được và không còn chung sống với nhau từ tháng 4 năm 2018 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân chị N và anh X không gặp nhau hoặc liên hệ với nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mặt khác, kết quả xác minh về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị N và anh X tại nơi cư trú, Trưởng ấp Thạnh T1, xã Thạnh L, huyện G, tỉnh Kiên Giang cho biết: Anh X không có hành vi đánh đập chị N; Chị N và anh X đều thiếu tinh thần trách nhiệm với nhau. Do đó, chị N và anh X đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị N và anh X nhưng không đạt kết quả do anh X vắng mặt và anh X cũng không có ý kiến phản đối với yêu cầu ly hôn của chị N. Điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của chị N và anh X đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị N yêu cầu ly hôn với anh X là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hồng N xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khon 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp chận cho chị Nguyễn Thị Hồng N được ly hôn với anh Phạm Tấn X.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0001290 ngày 06/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang. Chị N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Hồng N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án là ngày 12/11/2019; Anh Phạm Tấn X có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

Số hiệu:110/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về