TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 110/2018/HS-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 109/2018/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Giàng Thị S1; tên gọi khác: Không; sinh năm 1972 tại V, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giàng A Tr, sinh năm 1949 và bà Tráng Thị M, sinh năm 1951. Bị cáo có chồng là Tráng A S, sinh năm 1972 và 05 con, con lớn 30 tuổi, con nhỏ 19 tuổi; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 31/8/2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
2. Giàng Thị S2; tên gọi khác: Không; sinh năm 1975 tại huyện V, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giàng A N (đã chết) và bà Tráng Thị S (đã chết); bị cáo có chồng là Tráng A Kh, sinh năm 1973 và 03 con, con lớn 22 tuổi, con nhỏ 11 tuổi; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 31/8/2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người chứng kiến:
-Anh Tráng A D, sinh năm 1971, Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
-Anh Tráng A V, sinh năm 1987, Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
Người phiên dịch: Ông Tráng A L, sinh năm 1956, Nơi cư trú: Bản H, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do Giàng Thị S1 và Giàng Thị S2 có quan hệ quen biết vì sinh sống cùng bản với nhau, ngày 30/8/2018 trong lúc đi chăn trâu tại khu vực đồi thông thuộc bản H, xã V, S1 nhặt được 02 viên Hồng phiến sau đó đem về nhà cất giấu, mục đích có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Ngày 31/8/2018 S2 một mình đi bộ sang nhà S1 hỏi mua ma túy mục đích để sử dụng. S1 đã bán cho S2 02 viên Hồng phiến được gói trong mảnh nilon màu đen với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy S2 cất 02 viên Hồng phiến vào chiếc túi vải màu đen đang đeo tên người rồi đi bộ về nhà. Trên đường đi về thì gặp tổ công tác Công an huyện Vân Hồ kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Hồ ra lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở và giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Giàng Thị S1.
Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nilon màu đen bên trong đựng 02 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY thu giữ của Giàng Thị S2; 01 túi vải màu đen có dây đeo thu giữ của Giàng Thị S2; 400.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 01 chứng minh nhân dân thu giữ của Giàng Thị S1.
Ngày 31/8/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Hồ đã tiến hành cân tịnh xác định khối lượng ma túy thu giữ của Giàng Thị S2 gồm 02 viên nén màu hồng được tổng khối lượng 0,19 gam, lấy 0,10 gam làm mẫu ký hiệu S. Mẫu ký hiệu S được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy, khối lượng ma túy.
Tại kết luận giám đinh số: 1007 ngày 04/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu S là chất ma túy; loại chất Methamphetamine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,1 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,19 gam, loại chất Methamphetamine”.
Tại bản cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 16/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã truy tố các bị cáo Giàng Thị S1 về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, truy tố bị cáo Giàng Thị S2 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện Vân Hồ giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251 (đối với Giàng Thị S1); điểm c khoản 1 Điều 249 (đối với Giàng Thị S2); điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xửphạt các bị cáo Giàng Thị S1 từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) năm tù; xử phạt Giàng Thị S2 từ 01(một) năm đến 02 (hai) năm tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Về vật chứng đề nghị áp dụng các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự, các điểm a, b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 1 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,09 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Giàng Thị S2, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Giàng Thị S1, 01 túi vải màu đen có dây đeo. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 100.000 đồng của bị cáo Giàng Thị S1, tạm giữ của bị cáo Giàng Thị S1 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án, trả lại bị cáo Giàng Thị S1 100.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân.
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của bị cáo Giàng Thị S1: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Ý kiến của bị cáo Giàng Thị S2: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo Giàng Thị S1 nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt vì thời gian gần đây sức khỏe của bị cáo rất yếu.
Bị cáo Giàng Thị S2 nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa các bị cáo Giàng Thị S1, Giàng Thị S2 khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định số 1007 ngày 04/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, lời khai của những người chứng kiến Tráng A D, Tráng A V, Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung bị can cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 31/8/2018, bị cáo Giàng Thị S1 đã có hành vi bán 0,19 gam Methamphetamine cho bị cáo Giàng Thị S2 đã thu lợi 100.000 đồng. Bị cáo Giàng Thị S2 có hành vi tàng trữ 0,19 gam Methamphetamine mua của bị cáo Giàng Thị S1 mục đích là để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Giàng Thị S1 phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; bị cáo Giàng Thị S2 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu trách nhiệm tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
-Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, các bị cáo là người dân tộc thiểu số nên Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi bị bắt bị cáo Giàng Thị S2 đã tích cực khai báo để cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện ra hành vi phạm tội của bị cáo S1 nên hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo đều biết mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình phạm tội. Vì vậy, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng mức độ phạm tội của các bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Các bị cáo Giàng Thị S1, Giàng Thị S2 đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo Giàng Thị S1, Giàng Thị S2 còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử thấy các bị cáo không có tài sản, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng 0,09 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Giàng Thị S1, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Giàng Thị S2, 01 túi vải đen có dây đeo là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 400.000 đồng thu giữ của bị cáo Giàng Thị S1, cần tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước 100.000 đồng là số tiền do phạm tội mà có, tạm giữ của bị cáo Giàng Thị S1 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án, trả lại bị cáo Giàng Thị S1 100.000 đồng. Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Giàng Thị S1 là giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên tuyên trả lại cho bị cáo.
[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Giàng Thị S1); điểm c khoản 1 Điều 249, điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Giàng Thị S2); điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Giàng Thị S1 phạm tội: Tội mua bán trái phép chất ma túy. Tuyên bố bị cáo Giàng Thị S2 phạm tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Giàng Thị S1 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/8/2018 (là ngày bị bắt đối với bị cáo).
Xử phạt bị cáo Giàng Thị S2 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/8/2018 (là ngày bị bắt đối với bị cáo).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự, các điểm a, b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 1 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 0,09 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Giàng Thị S1, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Giàng Thị S2, 01 túi vải màu đen có dây đeo.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 100.000 đồng của bị cáo Giàng Thị S1. Tạm giữ của bị cáo Giàng Thị S1 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án.
Trả lại bị cáo Giàng Thị S1 100.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Giàng Thị S.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, mỗi bị cáo là 200.000 đồng.
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 110/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 110/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về