Bản án 110/2018/HNGĐ-ST ngày 13/06/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 110/2018/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 13/6/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 600/2018TLST-HNGĐ ngày 29/5/2018 về việc “Ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/QĐXXST-HNGĐ ngày 31/5/2018, giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1973.

2. Bị đơn: Ông Phan Văn T, sinh năm 1972.

Cùng địa chỉ: Ấp T, xã B, huyện Đ, tỉnh Long An. (Bà G có mặt, ông T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 29/5/2018 và những lời khai tiếp bà Nguyễn Thị G trình bày:

Bà và ông Phan Văn T chung sống với nhau vào năm 1993, không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2000 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân bà G cho rằng do cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cải vã nhau nên bà và ông T đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin ly hôn.

Về con chung: Bà G khai quá trình chung sống bà và ông T có 02 con chung là Phan Văn N, sinh năm 1994 và Phan Thị C sinh năm 1996. Hiện các con đã trưởng thành nên khi ly hôn bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị G khai không có.

Ông Phan Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai, ông xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn, về con chung, tài sản và nợ như lời trình bày của bà G là đúng. Nay chị G xin ly hôn, ông đồng ý.

Tại phiên tòa, bà G vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không bổ sung ý kiến gì thêm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai công khai tại phiên toà, trên cơ sở trình bày của đương sự, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng, Ông Phan Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung là đúng với quy định tại các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung, Theo bà G trình bày thì bà và ông T chung sống với nhau vào năm 1993 nhưng không có đăng ký kết hôn. Ủy ban nhân dân xã B cũng có văn bản xác nhận là bà G và ông T có chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn. Như vậy, việc bà G và ông T chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn là trái với quy định tại Điều 09 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa, bà G xin ly hôn, ông T cũng có ý kiến là đồng ý ly hôn nhưng do cả hai sống chung với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng nên Tòa án phải áp dụng Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để tuyên không công nhận bà G và ông T là quan hệ vợ chồng.

Về con chung: Phan Văn N, sinh năm 1994 và Phan Thị C sinh năm 1996. Hiện các con đã trưởng thành nên khi ly hôn bà G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và nợ: Quá trình chung sống bà G và ông T đều thống nhất khai không có nên không xem xét.

[3]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị G phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước là đúng quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 28, 35, 39, 63, 222, 225, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 14, 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Không công nhận bà nguyễn Thị G và ông Phan Văn T là quan hệ vợ chồng.

Về án phí:

Bà Nguyễn Thị G phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước nhưng được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002993 ngày 29/5/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, sang án phí để thi hành.

Án xử sơ thẩm tuyên án công khai, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông Phan Văn T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2018/HNGĐ-ST ngày 13/06/2018 về ly hôn

Số hiệu:110/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về