Bản án 1101/2020/HNGĐ-ST ngày 17/11/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1101/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 11 năm 2020 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 637/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 305/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 05/10/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 261/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27/10/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm: 1982, (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt) Địa chỉ: A16/12 ấp C, xã B, huyện X, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Bà Trịnh Thị Thanh T, sinh năm: 1982, (vắng mặt) Địa chỉ: A16/12 ấp C, xã B, huyện X, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 08/6/2020 và trong quá trình xét xử nguyên đơn ông Nguyễn Thanh P trình bày:

Ông và bà Trịnh Thị Thanh T tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2002, đôi bên có tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện X, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn và ngày càng nghiêm trọng nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, hạnh phúc gia đình không có.

Về con chung: có 02 con chung tên là Nguyễn Thị Thanh T, nữ, sinh ngày 26/08/2003 và Nguyễn Thanh N, nam, sinh ngày 11/7/2006. Khi ly hôn ông P yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai trẻ T, N và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Trịnh Thị Thanh T đã được Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bà T vắng mặt không lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

[1.1] Ông Nguyễn Thanh P yêu cầu ly hôn với bà Trịnh Thị Thanh T. Đây là tranh chấp về ly hôn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Bị đơn cư trú tại địa bàn huyện Bình Chánh, nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

[2] Về việc xét xử vắng mặt nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh P có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông P theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về việc xét xử vắng mặt bị đơn: Bà Trịnh Thị Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

[3] Về yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[3.1] Về hình thức: Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 49, quyển số 01/2002 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/04/2002 thì ông Nguyễn Thanh P và bà Trịnh Thị Thanh T là vợ chồng được pháp luật công nhận.

[3.2] Về nội dung: Xét lời trình bày của ông Nguyễn Thanh P nhận thấy giữa ông P với bà T trước khi kết hôn đã có thời gian quen biết và tìm hiểu nhau nên hôn nhân giữa đôi bên là hoàn toàn tự nguyện. Vợ chồng chung sống không có hạnh phúc do bất đồng quan điểm, tình tình không hợp nên ông P yêu cầu ly hôn với bà T để sớm ổn định cuộc sống.

Tòa án đã tiến hành triệu tập bà Trịnh Thị Thanh T đến Tòa để lấy lời khai, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà T không đến. Hai lần triệu tập đến tham gia phiên Tòa bà T vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy bà T đã không quan tâm đến tình trạng hôn nhân, không thiết tha trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”.

Hội đồng xét xử thấy rằng giữa ông P và bà T có mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ông bà không thể cùng chung sống để xây dựng gia đình hạnh phúc nên ông P yêu cầu ly hôn với bà T là có cơ sở để chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.3] Về con chung: có 02 con chung tên là Nguyễn Thị Thanh T, nữ, sinh ngày 26/08/2003 và Nguyễn Thanh N, nam, sinh ngày 11/7/2006. Hiện tại hai trẻ đang sống cùng với ông P nên ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai trẻ T, N và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con. Việc này phù hợp với nguyện vọng của trẻ T và trẻ N. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông P, giao hai trẻ T và N cho ông P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Ông Nguyễn Thanh P không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện và phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Bà T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

[3.4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông P khai nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Tòa án không đặt ra để giải quyết.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Từ những lý lẽ đã viện dẫn, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Thanh P.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Thanh P chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Áp dụng Điều 51, 56, 57, 58, 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

Áp dụng Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014:

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thanh P:

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thanh P được ly hôn với bà Trịnh Thị Thanh T Giấy chứng nhận kết hôn số 49, quyển số 01/2002 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện X, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/04/2002 không còn giá trị pháp lý 1.2. Về con chung: Giao hai trẻ Nguyễn Thị Thanh T, nữ, sinh ngày 26/08/2003 và Nguyễn Thanh N, nam, sinh ngày 11/07/2006 cho ông Nguyễn Thanh P trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Trịnh Thị Thanh T chưa phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Bà Trịnh Thị Thanh T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Thanh P xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Thanh P chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm ly hôn nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà ông P đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0079550 ngày 19/06/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh. Ông Nguyễn Thanh P đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1101/2020/HNGĐ-ST ngày 17/11/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1101/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về