Bản án 109/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 109/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 103/2021/TLST- HS ngày 07 tháng 9 năm 2021; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2021/HSST-QĐ ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Vũ Văn T (tên gọi khác: không), sinh ngày 20 tháng 4 năm 1996; tại: thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Khu 2, phường B, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghi ệp: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tôc: Kinh; giơi tinh: Nam; Tôn giao: không; Quôc tich: Viêt Nam; con ông: Vũ Văn B, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1973; vợ: Đoàn Thị H, sinh năm 1982; con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 11/9/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; Ngày 15/7/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xử phạt 12 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/5/2017; bị cáo đầu thú ngày 31/7/2021, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

* Bị hại: Anh Phạm Minh H, sinh năm 2001, nơi cư trú: Thôn B, xã V, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Vũ Đức L, sinh năm 1990, nơi cư trú: Khu 3, phường K, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

+ Anh Vũ Văn B, sinh năm 1994, nơi cư trú: Khu 2, phường B, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân nên Vũ Văn T đã nảy sinh ý định dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 14K1- 212.71 của anh Phạm Minh H, sinh năm 2001. Khoảng 21 giờ ngày 13/6/2021, T điện thoại rủ anh H đến quán nước gần khách sạn Sachi thuộc khu 8, phường H, thành phố M để uống nước. Anh H đồng ý và điều khiển xe mô tô trên đến gặp T. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, T nói dối hỏi mượn xe mô tô trên của anh H đi có việc và hứa khi xong việc sẽ trả lại xe. Anh H đồng ý và giao xe cho cho T. Sau khi nhận được xe, T đem chiếc xe mô tô đi cầm cố nhưng không cầm cố được. Khoảng 01 giờ ngày 14/6/2021, T đến quán nước thuộc khu vực bến xe khách M thì gặp Vũ Đức L, sinh năm 1990. T đặt vấn đề vay 3.100.000 đồng và đặt chiếc xe mô tô vừa chiếm đoạt được cho anh L để làm tin, anh L đồng ý. Sau khi có được số tiền 3.100.000 đồng, T sử dụng tiền mua ma túy, chơi game và tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 30/7/2021, anh Phạm Minh H đến Công an thành phố Móng Cái trình báo. Đến ngày 31/7/2021, T biết hành vi phạm tội của mình bị phát hiện nên đến Công an thành phố Móng Cái đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Cùng ngày, Vũ Đức L đã đem xe mô tô nhãn hiệu Honda –Wave 14K1- 212.71, giao nộp cho Công an thành phố Móng Cái.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 673/KL-HĐĐGTS ngày 31/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Móng Cái, kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu Honda – Wave, biển kiểm soát 14K1-212.71, trị giá 13.500.000đ (mười ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Bị hại anh Phạm Minh H có lời khai trong quá trình điều tra thể hiện: Việc anh bị bị cáo Vũ Văn T chiếm đoạt chiếc xe máy như nội dung vụ án nêu trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Vũ Đức L có lời khai thể hiện: Sự việc bị cáo vay tiền 3.100.000đ của anh và đặt chiếc xe máy Honda – Wave, biển kiểm soát 14K1-212.71 như nội dung vụ án nêu trên. Anh đã nhận lại đủ số tiền 3.100.000đ từ anh Vũ Văn B. Đến nay, anh không có yêu cầu gì.

+ Anh Vũ Văn B có lời khai thể hiện: T đã tác động gia đình để trả số tiền mà T đã vay của anh L. Anh B đã trả đủ 3.100.000 đồng cho anh L. Anh B không yêu cầu bị cáo T phải hoàn trả lại cho anh số tiền trên.

Tại bản Cáo trạng số: 106/CT-VKSMC ngày 07 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố Vũ Văn T, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn T khai nhận đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản như nêu trên.

* Phần tranh luận: Đai diên Viên kiêm sát trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị hội đồng xét xử.

- Áp dụng: khoản 1  Điều 174, điêm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Vũ Văn T từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/7/2021.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: 01 chiếc xe mãy nhãn hiệu Honda –Wave, màu xanh – đen- bạc, biển kiểm soát 14K1-212.71. Ngày 10/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Móng Cái đã trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Phạm Minh H. Do đó, đại diện Viện kiểm sát không đề cập xử lý.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không có yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự, nên không đề cập xử lý.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

* Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 13/6/2021, tại khu 8, phường H, thành phố M, Vũ Văn T đã dùng thủ đoạn gian dối để hỏi mượn và chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Honda –Wave, biển kiểm soát 14K1-212.71, trị giá 13.500.000đ (mười ba triệu năm trăm nghìn đồng) của anh Phạm Minh H, đem cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Hội đồng xét xử xét hành vi của bị cáo đã thực hiện như nêu trên đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội “Lừa đảo chiểm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật và bị cáo có lối sống thiếu chuẩn mực (nghiện ma túy, nghiện chơi game), do không có tiền tiêu xài, nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh H. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, về nhân thân thì: Ngày 11/9/2013, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; Ngày 15/7/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xử phạt 12 tháng tù về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/5/2017. Do đó, cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo ra đầu thú, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Vũ Đức L, nên bị cáo được áp dụng tình tiêt giam nhe trách nhiệm hình sự quy đinh tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung : tại khoản 5  Điều 174 của Bộ luât Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vât chứng : 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda –Wave, màu xanh – đen- bạc, biển kiểm soát 14K1-212.71, số máy JA39E0082171, số khung 3903HY085676. Chủ sở hữu hợp pháp là anh Phạm Minh H. Ngày 10/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Móng Cái đã trả lại chiếc xe trên cho anh H. Việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Móng Cái đã trả lại chiếc xe trên cho anh H là đúng. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

+ Anh Vũ Đức L cho bị cáo vay số tiền 3.100.000 đồng, bị cáo T đã tác động gia đình (anh trai của bị cáo là Vũ Văn B) đã trả cho anh L số tiền trên và anh L cũng không yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

+ Đối với số tiền 3.100.000 đồng anh B trả cho anh L là tiền của anh B. Tuy nhiên, anh B không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại cho anh số tiền nêu trên, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[9] Về lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát:  Xét những chứng cứ mà Kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã được cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng Hình sự quy định; Tại phiên tòa bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội như bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Nên lời buộc tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đôi vơi bi cao là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về án phí: bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo : bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật

[12] Đối với anh Vũ Đức L có hành vi nhận cầm cố chiếc xe mô tô do T chiếm đoạt của người khác, tuy nhiên anh L không biết đó là tài sản do T phạm tội mà có, nên không có căn cứ để xử lý về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Đối với chiếc điện thoại di động, bị cáo T đã dùng liên lạc để lừa anh Phạm Minh T, quá trình điều tra đã truy tìm nhưng không có kết quả.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Vũ Văn T (tên gọi khác: Không) phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Áp dụng: Khoản 1 Điều 174, Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Vũ Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày: 31/7/2021.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1, 4 Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Vũ Văn T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2021/HS-ST ngày 23/09/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:109/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về