Bản án 109/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

 BẢN ÁN 109/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 87/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Phan T, sinh năm 1989, tại Bến Tre; Nơi cư trú: ấp A, xã M, huyện V, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan V, sinh năm 1965 và bà: Nguyễn Thị T (chết); Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 25/2012/HSST ngày 10 tháng 4 năm 2012, Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01 tháng 9 năm 2015 và đã được xóa án tích; Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21 tháng 4 năm 2020 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

1. Ông Lê B, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Ấp A, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (Vắng)

2. Anh Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Ấp A, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (Vắng)

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Minh P, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (Vắng)

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Khu phố A, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. (Vắng)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng thời gian đầu tháng 02 năm 2020, bị cáo Phan T đến chùa “HP” thuộc ấp A, xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai gặp ông Lê B (pháp danh Thích T) là trụ trì để xin được làm công quả và ở lại tại chùa thì được ông Lê B đồng ý. Quá trình làm công quả tại chùa, bị cáo Phan T biết được trong chùa chỉ có ông Lê B và anh Nguyễn Văn Kh (pháp danh Quảng H), hàng ngày ông Lê B và anh Nguyễn Văn Kh tụng kinh tại chánh điện từ thời điểm 03 giờ 30 phút đến 04 giờ 30 phút trong ngày. Đồng thời, bị cáo Phan T biết được ông Lê B có 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh biển số 60V-.....thường cắm sẵn chìa khóa trên ổ khóa dựng trước cửa phòng ngủ của ông Lê B và 01 máy tính xách tay hiệu Dell màu đen của anh Nguyễn Văn Kh thường để trên bàn trong phòng ngủ anh Nguyễn Văn Kh không khóa cửa, nên bị cáo Phan T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nêu trên đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng. Vào khoảng 04 giờ ngày 16 tháng 3 năm 2020, ông Lê B và anh Nguyễn Văn Kh đang tụng kinh tại chánh điện, xung quanh không có người, bị cáo Phan T đã lén lút dùng tay mở cửa phòng ngủ anh Nguyễn Văn Kh đột nhập vào lấy một balo màu xám bên trong đựng máy tính xách tay hiệu Dell màu đen và một số giấy tờ tùy thân rồi đi ra để ba lô lên trên gác ba ga trước của xe mô tô biển số 60V-.....đang dựng trước phòng ngủ của ông Lê B và dắt xe mô tô ra cổng trước của chùa, rồi tiếp tục dắt xe mô tô ra đường Quốc lộ 1A và điều khiển xe mô tô chạy về hướng tỉnh Bình Thuận. Đến khoảng 07 sáng giờ cùng ngày, bị cáo Phan T điều khiển xe mô tô đem máy tính xách tay trộm cắp được đến cửa hàng điện thoại “Ph Mobile” thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, do anh Trần Minh P làm chủ bán được số tiền 400.000 đồng. Sau đó, bị cáo Phan T điều khiển xe mô tô đi đến phòng trọ của bạn là anh Nguyễn Văn L thuộc thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận cất ba lô bên trong đựng giấy tờ tùy thân của anh Nguyễn Văn Kh. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, bị cáo Phan T điều khiển xe mô tô biển số 60V-.....đi đến khu vực nghĩa trang thuộc địa bàn xã M, huyện V, tỉnh Đồng Nai dùng số tiền 200.000 đồng có được từ việc bán máy tính xách tay, mua ma túy đá của một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) để sử dụng. Đến khoảng 13 giờ ngày 17 tháng 3 năm 2020, bị cáo Phan T điều khiển xe mô tô biển số 60V-.....đến khu vực gần Bệnh viện Thống Nhất thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai bán xe mô tô trên cho một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 800.000 đồng.

Đến ngày 17 tháng 4 năm 2020, bị cáo Phan T đi đến cơ sở giết mổ gia súc của anh Nguyễn Thanh H thuộc thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận xin vào làm thuê. Đến khoảng 12 giờ ngày 20 tháng 4 năm 2020, quan sát thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS, màu đen, biển số 60P-.....(cắm sẵn chìa khóa trên ổ khóa điện) của anh Nguyễn Thanh H đang dựng tại sân trước nơi làm việc, không có người trông coi nên bị cáo Phan T đã lén lút dắt xe mô tô trên ra đường rồi điều khiển xe mô tô chạy về phòng trọ của anh Nguyễn Văn L. Do nghi ngờ bị cáo Phan T trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Văn Kh nên anh Nguyễn Văn L đã khuyên bị cáo Phan T đến Cơ quan Công an đầu thú.

Tại bản Kết luận định giá số 31/KL-HĐĐG ngày 24 tháng 4 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha-Sirius, màu xanh, biển số 60V-....., đã qua sử dụng có giá trị: 5.000.000 đồng; 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Inspion 14 3000 Series - 3467, đã qua sử dụng có giá trị: 7.000.000 đồng; 01 ba lô màu xám, bằng vải, kích thước 45x30x15cm, có giá trị: 100.000 đồng. Tổng giá trị còn lại của tài sản là 12.100.000 đồng.

Vật chứng vụ án thu giữ: 01 máy tính xách tay màu đen hiệu DELL Inspion 14 3000 Series - 3467 và 01 ba lô màu xám bằng vải, kích thước 45x30x15cm.

Bản cáo trạng số 98/CT-VKSXL ngày 25 tháng 6 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố bị cáo Phan T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 16 tháng 3 năm 2020, tại chùa “HP” thuộc ấp A, xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai; bị cáo Phan T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Inspion 14 3000 Series-3467 trị giá 7.000.000 đồng, 01 ba lô màu xám, bằng vải, kích thước 45x30x15cm trị giá 100.000 đồng của anh Nguyễn Văn Kh và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xanh biển số 60V-.....trị giá 5.000.000 đồng của ông Lê B. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 12.100.000 đồng.

Tài liệu chứng cứ thu thập hoàn toàn khách quan, đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phan T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, một phần tài sản đã thu hồi trả cho bị hại, tại phiên tòa bị cáo cũng đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan T từ 12 đến 14 tháng tù. Buộc bị cáo bồi thường cho ông Lê B số tiền 5.000.000 đồng. Vật chứng vụ án đã được xử lý nên không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo tự bào chữa: bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thống nhất với bản cáo trạng, ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình trái với quy định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để có cơ hội sớm về hòa nhập với cộng đồng.

Bị hại ông Lê B vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, trong quá trình điều tra thể hiện: xe mô tô biển số 60V-.....của ông Lê B không thu hồi được nên ông Lê B yêu cầu bị cáo bồi thường theo giá trị Hội đồng định giá đã kết luận là 5.000.000 đồng.

Bị hại anh Nguyễn Văn Kh vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra thể hiện: anh Nguyễn Văn Kh đã nhận lại tài sản là 01 máy tính xách tay và 01 ba lô màu xám nên không có yêu cầu gì về dân sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Minh P vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra thể hiện: anh Trần Minh P là chủ cửa hàng điện thoại đã mua máy tính xách tay của bị cáo với số tiền 400.000 đồng, anh Trần Minh P đã giao trả lại máy tính nhưng anh Trần Minh P không có yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền 400.000 đồng tiền mua máy tính.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào ngày 16 tháng 3 năm 2020, bị cáo Phan T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Dell Inspion 14 3000 Series-3467 trị giá 7.000.000 đồng, 01 ba lô màu xám trị giá 100.000 đồng của anh Nguyễn Văn Kh và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xanh biển số 60V-.....trị giá 5.000.000 đồng của ông Lê B. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 12.100.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo Phan T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đối với hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào ngày 18 tháng 8 năm 2019 tại ấp A, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Bình Phước đang điều tra xử lý theo quy định.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản là xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS, màu đen, biển số 60P-.....của anh Nguyễn Thanh H, tại cơ sở giết mổ gia súc thuộc thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận vào ngày 20 tháng 4 năm 2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã thông báo cho Công an huyện H, tỉnh Bình Thuận tiếp nhận để xử lý theo thẩm quyền là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Phan T, Công an huyện Xuân Lộc đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo Phan T là phù hợp.

Đối với anh Trần Minh P là người đã mua máy tính xách tay của bị cáo Phan T, anh Trần Minh P không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc không đưa ra hình thức xử lý là phù hợp.

Đối với người đàn ông ở địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã mua xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu xanh, biển số 60V-.....của bị cáo Phan T. Do chưa xác minh được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đang tiếp tục xác minh và xử lý sau.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội: bị cáo là công dân có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, nhưng chỉ vì cần có tiền để tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng ma túy, bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn trật tự tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, tự nguyện bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Vật chứng vụ án: 01 máy tính xách tay màu đen hiệu DELL Inspion 14 3000 Series - 3467 và 01 ba lô màu xám bằng vải, kích thước 45x30x15cm, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Kh là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: anh Nguyễn Văn Kh đã nhận lại tài sản, anh Nguyễn Văn Kh không yêu cầu gì về dân sự nên không xem xét giải quyết.

Đối với xe mô tô mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu xanh, biển số 60V- .....bị cáo Phan T đã bán cho người đàn ông không rõ lai lịch nên không thu hồi được, quá trình điều tra ông Lê B yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 5.000.000 đồng theo kết luận của Hội đồng định giá. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 5.000.000 đồng theo yêu cầu của ông Lê B nên ghi nhận.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm do có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bị hại.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: bị cáo Phan T - 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 4 năm 2020.

- Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 589 và Điều 357 của Bộ luật Dân sự:

Buộc bị cáo Phan T bồi thường cho ông Lê B số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn xin thi hành án (Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật) mà người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền nêu trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành.

- Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Phan T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng bị cáo Phan T phải chịu 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) tiền án phí.

Bị cáo Phan T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Ông Lê B, anh Nguyễn Văn Kh và anh Trần Minh P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 109/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:109/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về