Bản án 109/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 109/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2020/TLST- HS ngày 13 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2020/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Anh T, tên gọi khác: Không, sinh năm 1991, tại tỉnh Lâm Đồng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: số nhà 116/26 đường 1/5, tổ 11, phường B, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa: 08/12; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; con ông Lê Văn L, sinh năm 1962 và bà Ngô Thị B, sinh năm 1962, cùng cư trú tại: phường B, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 23/9/2014, Lê Anh T bị TAND huyện B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo Bản án số 47/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/12/2019.

Bị cáo bị bắt và tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 16/7/2020 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 16/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng phối hợp cùng Công an phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng kiểm tra phòng trọ A14 - dãy nhà trọ số 43 đường N, Phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng, phát hiện trong phòng có 03 đối tượng gồm: bị cáo Lê Anh T; anh Ngô Đức B, sinh năm 1994, trú tại tổ dân phố 4, khu 5, phường B, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng và chị La Thị Minh T, sinh năm 1998, trú tại xóm 2, thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Đồng thời phát hiện phía dưới nền nhà ngay vị trí Lê Anh T đang ngồi có 01 gói nilon màu trắng kích thước (1,3 x 3,5)cm trên miệng có rãnh khép kín cùng vạch kẻ ngang màu cam, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng, Lê Anh T khai nhận là của T. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và lập biên bản thu giữ, niêm phong gói nilon nêu trên, tạm giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình thủy tinh màu tráng, 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu đen có màn hình bị rạn nứt.

Theo kết luận giám định số 1256/GĐ-PC06 ngày 20/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể đựng trong 01 gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1817g (không phẩy một tám một bảy gam), loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 117/CT-VKSBL, ngày 09 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Lê Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hỉnh sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, phạt bị cáo Lê Anh T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy vật chứng, chứng minh tội phạm, gồm:

+ 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1256/2020.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút nhựa màu trắng, 01 bình thủy tinh màu trắng và 01 nỏ thủy tinh.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S, màu đen, số Imeil 865222044191017 màn hình cảm ứng bị rạn nứt. Đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có hanh luận, đối đáp gì với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thay như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm: Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo Lê Anh T đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; nội dung kết luận giám định; biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định và đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Lê Anh T là người nghiện ma túy, đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xoá án tích. Ngày 16/7/2020 tại dãy phòng trọ số nhà 43 đường N, phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng, Lê Anh T bị Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý 0,1817g (không phẩy một tám một bảy gam), loại Methamphetamine.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 117/CT-VKSBL, ngày 09 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất và mức độ của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động tàng trữ chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lục trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì thái độ xem thường pháp luật, cũng như nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu sử dụng ma tuý cho bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Bị cáo thực hiện tội phạm nghiêm trọng, gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 23/9/2014, Lê Anh T bị TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo Bản án số 47/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/12/2019, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Vì vậy, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Phạt bổ sung: Bị cáo là người sử dụng ma tuý nên miễn phạt bổ sung.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau:

Vật chứng, chứng minh tội phạm, tịch thu tiêu hủy, gồm:

+ 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1256/2020.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút nhựa màu tráng, 01 bình thủy tinh màu trắng và 01 nỏ thủy tinh.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu đen, số Imeil 865222044191017 màn hình cảm ứng bị rạn nứt. Đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[10] Các vấn đề khác:

Về nguồn gốc ma túy, Lê Anh T khai nhận, đã được 01 đối tượng tên Đ (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) cho gói nilon đựng số ma túy nêu trên cùng 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy vào ngày 10/7/2020 tại khu vực xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Quá trình điều tra, không xác định được nhân thân, lai lịch của Đ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng tách ra tiếp tục điều tra để xử lý sau.

Đối với anh Ngô Đức B và chị La Thị Minh T: quá trình điều tra xác định, khi bị bắt quả tang đang ở cùng phòng trọ với Lê Anh T nhưng anh B, chị T không biết việc bị cáo T tàng trữ trái phép chất ma túy nên xem xét trách nhiệm hình sự.

[11] Xét đề nghị và luận tội của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[12] Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về ..., án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[13] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, phạt bị cáo Lê Anh T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/7/2020.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy gồm:

+ 01 phong bì niêm phong sau giám định số 1256/2020.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút nhựa màu trắng, 01 bình thủy tinh màu trắng và 01 nỏ thủy tinh.

- Trả lại cho bị cáo Lê Anh T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S màu đen, số Imeil 865222044191017 màn hình cảm ứng bị rạn nứt nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tình trạng vật chứng theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 14/10/2020 giữa Cơ quan Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Anh T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:109/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về