Bản án 109/2019/HS-ST ngày 25/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 109/2019/HS-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 102/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2019/QĐST-HS ngày 17/9/2019 đối với bị cáo:

Nguyn Thị T, sinh năm 1984 tại Bắc Ninh; nơi đăng ký thường trú: ấp Mỹ L, xã A, thị xã B, tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: 281/25/9 Lê Văn S, Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: giúp việc nhà; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1955 và bà: Nguyễn Thị N, sinh năm 1958; có chồng: Nguyễn Văn G, sinh năm 1980 và 01 con, sinh năm 2010; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: không. Có mặt.

- Bị hại: Võ Thị Phương T1, sinh năm 1975, nơi cư trú: 281/41/15 Lê Văn S, Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyn Thị T làm nghề giúp việc theo giờ cho gia đình chị Võ Thị Phương T1 tại địa chỉ 281/41/5 Lê Văn S, Phường C, quận D từ giữa tháng 11/2018, thời gian làm việc từ 07 giờ đến 09 giờ sáng mỗi ngày. Trong thời gian T đến làm việc, chỉ có cha mẹ chị T1 ở tại tầng trệt, trong phòng ngủ lầu 1 có 01 con heo đất màu hồng để trên kệ sách và 01 con heo đất màu vàng để trên két sắt.

Vào sáng ngày 16/01/2019, do đang cần tiền nên T nảy sinh ý định lấy trộm tiền chị T1 để dành trong 02 con heo đất. T vào phòng ngủ lầu 1, kéo rèm cửa che camera trong phòng lại, dùng cây dũa móng tay chân mang theo sẵn móc tiền trong các con heo đất. Trong ngày 16/01/2019, T lấy tổng cộng được 5.000.000 đồng (gồm 10 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng).

Bằng thủ đoạn tương tự, T tiếp tục 08 lần chiếm đoạt tiền trong 02 con heo đất của chị T1, cụ thể:

- Ngày 17/01/2019, T chiếm đoạt số tiền 3.500.000 đồng (tổng cộng 7 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng).

- Ngày 18/01/2019, T chiếm đoạt số tiền 4.000.000 đồng (tổng cộng 8 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng).

- Ngày 19/01/2019, T chiếm đoạt số tiền 2.500.000 đồng (tổng cộng 5 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng).

- Ngày 20/01/2019, T chiếm đoạt số tiền 3.500.000 đồng (tổng cộng 7 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng).

- Ngày 21/01/2019, T chiếm đoạt số tiền 3.000.000 đồng (tổng cộng 6 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng).

- Ngày 22/01/2019, T chiếm đoạt số tiền 3.000.000 đồng (tổng cộng 6 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng).

- Ngày 23/01/2019, T chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng (tổng cộng 4 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng).

- Ngày 24/01/2019, T chiếm đoạt số tiền 1.600.000 đồng (tổng cộng 3 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng).

Tổng cộng, số tiền T chiếm đoạt của chị Võ Thị Phương T1 là 28.100.000 đồng.

Đến tối ngày 24/01/2019, chị T1 đập 02 con heo đất trên thì thấy trong 02 con heo đất chỉ có tổng số tiền là 5.301.200 đồng. Nghi ngờ có người lấy trộm tiền trong 02 con heo đất nên chị T1 kiểm tra dữ liệu camera, phát hiện T có hành vi kéo rèm che camera lại. Chị T1 điện thoại yêu cầu T đến nhà hỏi thì T thừa nhận đã nhiều lần lấy trộm tiền trong 02 con heo đất, tổng cộng là 28.100.000 đồng. Chị T1 không đồng ý vì cho rằng chị bỏ tiết kiệm trong 02 con heo đất phải được từ khoảng 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Chị T1 đã trình báo công an Phường 1, quận Tân Bình.

Tiến hành thực nghiệm điều tra, T diễn lại hành vi dùng cây dũa móng tay chân móc tiền trong 02 con heo đất của chị T1 phù hợp với lời khai của T và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Quá trình điều tra, Nguyễn Thị T đã thừa nhận hành vi phạm tội như nêu trên. T khai do đang cần tiền cho con trị bệnh nên đã lấy tổng cộng 09 lần tiền trong 02 con heo đất của chị T1, tổng cộng là 28.100.000 đồng. T đã tiêu xài hết 16.300.000 đồng, còn lại 11.800.000 đồng T giao nộp lại cho công an.

Bị hại chị Nguyễn Thị Phương T1 xác định không biết chính xác số tiền chị bỏ tiết kiệm trong 02 con heo đất là bao nhiêu nhưng đoán phải được từ khoảng 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. T chỉ thừa nhận lấy 28.100.000 đồng. Ngày 25/01/2019, gia đình bị cáo T đã xin khắc phục hậu quả, thỏa thuận bồi thường cho chị T1 số tiền 40.000.000 đồng. Cơ quan công an cũng đã giao lại số tiền 11.800.000 đồng cho chị T1. Tổng cộng, chị T1 đã nhận bồi thường tổng cộng 51.800.000 đồng và có đơn bãi nại, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho T.

Vt chứng thu giữ:

- 01 cây dũa bằng kim loại dài khoảng 20 cm đầu nhọn do T giao nộp.

- Các mảnh vỡ của con heo đất màu vàng và con heo đất màu hồng chị T1 giao nộp.

Tại bản cáo trạng số 102/CT-VKS ngày 05 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Thị T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị T là giúp việc nhà theo giờ cho gia đình chị Võ Thị Phương T1, đã nhiều lần có hành vi lén lút dùng cây dũa móng tay chân móc tiền trong 02 con heo đất để trong phòng ngủ của chị T1, tổng cộng số tiền bị cáo chiếm đoạt là 28.100.000 đồng, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Trong vụ án này, bị cáo đã liên tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản 09 lần, thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người bị hại có đơn bãi nại và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Võ Thị Phương T1 đã được bồi thường, không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tang vật vụ án:

- 01 cây dũa bằng kim loại dài khoảng 20 cm là công cụ phạm tội nên tịch thu và tiêu hủy.

- Các mảnh vỡ của hai con heo đất màu vàng và màu hồng là những vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Thị T 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

[2] Tịch thu và tiêu hủy: 01 cây dũa bằng kim loại dài khoảng 20cm có đầu nhọn (cây móc khóe chân) và các mảnh vỡ của hai con heo đất màu vàng và màu hồng.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 140/PNK ngày 23/7/2019 của Công an quận Tân Bình).

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2019/HS-ST ngày 25/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:109/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về