Bản án 109/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT  - TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 109/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN 

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 278/2019/TLST-HNGĐ, ngày 28 tháng 8 năm 2019 về “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 05 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Vương Thị Mỹ P, sinh năm 1986; địa chỉ: Tổ 41, Khu phố 5, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Lư Chiến T, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ 35, Khu phố 4, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện ngày 17/7/2019, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Vương Thị Mỹ P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Vương Thị Mỹ P và ông Lư Chiến T chung sống với nhau từ năm 2012, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 141/2012, quyển số 01/2012, ngày 04/10/2012 tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Trong quá trình chung sống vợ chồng không có hạnh phúc, đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, ông T hay cờ bạc. Vì vậy, nay thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, bà P không còn tình cảm với ông T, không thể hàn gắn được nên bà Vương Thị Mỹ P yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Lư Chiến T.

Về con chung: Bà Vương Thị Mỹ P và Lư Chiến T không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Vương Thị Mỹ P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kèm theo đơn khởi kiện nguyên đơn giao nộp các tài liệu chứng cứ sau: Chứng minh dân dân, sổ hộ khẩu của bà Vương Thị Mỹ P, ông Lư Chiến T (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản sao).

2. Bị đơn ông Lư Chiến T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của bị đơn ông Lư Chiến T.

Bị đơn không giao nộp tài liệu chứng cứ.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn bà Vương Thị Mỹ P có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn ông Lư Chiến T vắng mặt không có lý do.

- Phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa.

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:

Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa:

Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vương Thị Mỹ P đối với bị đơn ông Lư Chiến T về việc “Ly hôn”.

+ Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng: Không [1]. Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1.1]. Về quan hệ pháp luật: Ngày 17 tháng 7 năm 2019, bà Vương Thị Mỹ P có đơn khởi kiện ly hôn với ông Lư Chiến T. Từ những nội dung tranh chấp nêu trên, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn” theo quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[1.2]. Về thẩm quyền: Bà Vương Thị Mỹ P khởi kiện về việc ly hôn đối với ông Lư Chiến T, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại thời điểm thụ lý, bị đơn ông Lư Chiến T đang cư trú tại phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.3]. Về việc tham gia phiên tòa của đương sự:

Tại phiên tòa nguyên đơn bà Vương Thị Mỹ P có đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn ông Lư Chiến T vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai. Vì vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: [2.1]. Về quan hệ hôn nhân:

Bà Vương Thị Mỹ P và ông Lư Chiến T chung sống với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 141/2012, quyển số 01/2012, ngày 04/10/2012 tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Việc chung sống và đăng ký kết hôn giữa bà P và ông T là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 11 của Luật hôn nhân và Gia đình năm 2000 nên hôn nhân giữa bà P và ông T là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bà P xác định hiện nay vợ chồng chung sống không có hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, vợ chồng đã không còn sống chung, nên bà P quyết định ly hôn với ông T.

Việc bà P và ông T không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn nên vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần để tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng ông T vắng mặt điều này chứng tỏ ông T không mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc nên vợ chồng phải có trách nhiệm chăm sóc, giúp đỡ nhau về mọi mặt, tin tưởng yêu thương nhau, những mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng cần phải tìm cách giải quyết để xây dựng gia đình hạnh phúc.

Qua xác minh tại địa phương nơi bà P, ông T cư trú cho biết: Bà P và ông T là vợ chồng, quá trình chung sống vợ chồng bà P và ông T xảy ra mâu thuẫn, hiện nay vợ chồng không còn sống chung.

Bà P xác định hiện nay không còn tình cảm với ông T, vợ chồng không thể nào có cơ hội hàn gắn. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định mâu thuẫn giữa bà P và ông T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà P yêu cầu được ly hôn với ông T là có cơ sở. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Vương Thị Mỹ P đối với ông Lư Chiến T.

[2.2]. Về con chung: Qúa trình chung sống bà Vương Thị Mỹ P và ông Lư Chiến T không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[3]. Tại phiên tòa, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4]. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bà Vương Thị Mỹ P phải nộp 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các điều 147, 227, 228, 238, 266, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 53, 56, 57 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vương Thị Mỹ P về việc “Ly hôn” đối với bị đơn ông Lư Chiến T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Vương Thị Mỹ P được ly hôn với ông Lư Chiến T.

1.2. Về con chung: Không có, đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Vương Thị Mỹ P phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0034418, ngày 19/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn 

Số hiệu:109/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về