Bản án 109/2018/HS-ST ngày 17/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO,TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 109/2018/HS-ST NGÀY 17/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 102/2018/TLST- HS ngày 28 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:111/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo :

Đinh Văn N, sinh năm 1993, tại tỉnh Tiền Giang

- Nơi cư trú: Số 235, ấp T, xã L, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

- Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.

- Nghề nghiệp: Không.

- Trình độ văn hóa: 7/12.

- Cha: Đinh Văn D, sinh năm 1972 và mẹ: Phùng Thị P, sinh năm 1972.

- Anh ruột có 01 người. Bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình.

- Bị cáo chưa có vợ, con.

- Ngày 29/9/2014, N bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” (Bản án số 103/2014/HSST). Bị cáo đã chấp hành xong bản án.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo N bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 52 ngày 03/7/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Mỹ Tho.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại : Trần Thị Yến P, sinh 1998 (có mặt).

Nơi cư trú: ấp T, xã Đ, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : Trương Thành T, sinh 1983 (có mặt).

Nơi cư trú: ấp A, xã P, thành phố T, tỉnh Tiền Giang.

* Người làm chứng : Nguyễn Hoài Th, sinh 1987(có mặt).

Nơi cư trú: số 23/12, đường L, phường T, thành phố T, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Pên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đinh Văn N có quan hệ tình cảm và sống chung với chị Trần Thị Yến P, sinh năm 1998, ngụ ấp Tây 1, xã Long Định, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang tại phòng trọ số 12, khu nhà trọ cho thuê số 12/9C, đường L, Phường T, thành phố T. Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 28/5/2018, P đi học tại trường Cao đẳng nghề Tiền Giang, để xe mô tô nhãn hiệu Wave Alpha biển số 63B3.... ở phòng trọ, chìa khóa xe và giấy chứng nhận đăng ký xe thì P mang theo, P không giao xe cho N quản lý và sử dụng. Khoảng 13 giờ 40 phút cùng ngày, N lén lút trộm cắp xe mô tô trên đem đến tiệm sửa xe của anh Nguyễn Hoài Th, sinh năm 1987, ngụ số 23/12, đường L, phường T, thành phố T, tỉnh Tiền Giang nhờ Th tháo dây điện công tắc xe để khởi động máy (Th không biết xe mô tô trên do N trộm của chị P). Sau đó, N cùng người thanh niên tên B (không rõ họ tên địa chỉ) đem cầm xe mô tô vừa trộm được cho Trương Thành T, sinh năm 1983, ngụ ấp ấp A, xã P, thành phố T, tỉnh Tiền Giang giá 2.500.000 đồng.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, P về phát hiện mất xe nên hỏi N thì N nói xe không có giấy tờ bị Công an tạm giữ và kêu P đưa 1.000.000 đồng và giấy tờ xe để lấy xe. Sau đó, N cho Băng 600.000 đồng và đưa Băng 1.400.000 đồng mua ma túy về sử dụng, số tiền còn lại N tiêu xài hết. Đến khoảng 01 giờ ngày 29/5/2018, N và Băng đưa cho Tâm giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 63B3... và nhận thêm 1.000.000 đồng tiền cầm xe. Số tiền này, N đưa cho Băng mua túy sử dụng. Sau đó, chị P đến Công an Phường T, thành phố Mỹ Tho trình báo.

Trong quá trình điều tra, truy tố; Đinh Văn N thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai bị hại, người liên quan và chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án nên được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave; số máy: HC...; số khung: 1258..., biển số đăng ký 63B3....; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 020.., biển số 63B3... (Cơ quan điều tra đã trả cho bị hại Trần Thị Yến P).

Căn cứ bản kết luận định giá tài sản số 118 ngày 11/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Mỹ Tho kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave, biển số 63B3... trị giá 12.600.000 đồng.

- Anh Trương Thành Tâm khi nhận cầm xe mô tô biển số 63B3... thì không biết do N trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không khởi tố T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ.

- Đối với người thanh niên tên Băng, do N không biết rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không triệu tâp làm việc được, hiện tiếp tục điều tra làm rõ nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 105/CT-VKSTPMT-HS ngày 28/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Tiền Giang đã truy tố bị cáo Đinh Văn N về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho giữ quyền công tố tại Pên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đinh Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra, bị cáo Đinh Văn N thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi, N vụ liên quan, người làm chứng và chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án nên căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 và khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 . Xử phạt bị cáo từ 9 tháng đến 12 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận bị hại Trần Thị Yến P đã nhận lại tài sản 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave; số máy: HC.....; số khung: 1258...., biển số đăng ký 63B3....; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 020..., biển số 63B3.... bị mất trộm

Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại Trần Thị Yến P đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên không yêu cầu bồi thường và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho N. Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

- Bị cáo đồng ý bồi thường cho anh Trương Thành Tâm số tiền 3.500.000 đồng mà Tâm bỏ ra để cầm xe và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 63B3.... Đề nghị

Hội đồng xét xử ghi nhận.

Căn cứ vào tài liệu chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại Pên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại Pên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Pên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về lời khai và hành vi của bị cáo Đinh Văn N:

Tại Pên toà cũng như trong quá trình điều tra bị cáo Đinh Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi, N vụ liên quan; người làm chứng và chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án là Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 28/5/2018 tại phòng trọ số 12 địa chỉ số 12/3, đường L, Phường T, thành phố T, tỉnh Tiền Giang; Đinh Văn N lén lút lấy trộm xe mô tô trị giá 12.600.000 đồng của chị Trần Thị Yến P nên phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về kết luận giám định: Kết luận định giá tài sản số 118 ngày 11/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản thành phố T kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave, biển số 63B3-559.54 trị giá 12.600.000 đồng.

[4] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Từ những chứng cứ trên đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Đinh Văn N đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, do đó cáo trạng số 105/CT-VKSMT-HS ngày 28/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Đinh Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[5] Về điều luật áp dụng: điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 và khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.

[6] Nhận định hành vi:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, tác động xấu đến tình hình trật tự và an toàn xã hội ở địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nhưng với ý thức tham lam, lười lao động, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, chiếm đoạt tài sản người khác để phục vụ nhu cầu cá nhân, bị cáo đã lén lút lợi dụng sự mất cảnh giác bị cáo lén lút lấy trộm xe mô tô của chị Trần Thị Yến P. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc “Trộm cắp tài sản” là vi phạm pháp luật, gây tác hại xấu cho xã hội nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, hành động này luôn bị xã hội lên án. Vì vậy, cần xử lý bị cáo mức án thật nghiêm khắc để tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt sống có ích cho xã hội đồng thời đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.

Tuy nhiên xét thấy bị cáo Đinh Văn N thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi, N vụ liên quan, người làm chứng và chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án nên căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hội đồng xét xửxem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt đối với bị cáo;

 [7] Về vật chứng: Hội đồng xét xử ghi nhận bị hại Trần Thị Yến P đã nhận lại tài sản 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave; số máy: HC...; số khung: 1258... biển số đăng ký 63B3...; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 020..., biển số 63B3-...bị mất trộm.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

- Hội đồng xét xử ghi nhận bị hại Trần Thị Yến P đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên không yêu cầu bồi thường và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho N.

- Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo đồng ý bồi thường cho anh Trương Thành T số tiền 3.500.000 đồng mà T bỏ ra để cầm xe và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 63B3....

 [9] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đinh Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 và khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự : Ghi nhận bị hại Trần Thị Yến P đã nhận lại tài sản 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave; số máy: HC...; số khung: 1258.., biển số đăng ký 63B3....; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 020..., biển số 63B3... bị mất trộm.

(Theo biên bản trả lại đồ vật, tài liệu ngày 11/6/2018 tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố T).

Về trách nhiệm dân sự:

- Ghi nhận bị hại Trần Thị Yến P đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên không yêu cầu bồi thường và có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho N.

- Ghi nhận bị cáo đồng ý bồi thường cho anh Trương Thành T số tiền 3.500.000 đồng mà Tâm bỏ ra để cầm xe và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 63B3....

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Bị cáo Đinh Văn N phải chịu là 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Đinh Văn N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2018/HS-ST ngày 17/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:109/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về