Bản án 109/2018/HSST ngày 16/04/2018 về tội gián điệp và cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 109/2018/HSST NGÀY 16/04/2018 VỀ TỘI GIÁN ĐIỆP VÀ CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 4 năm 2018 tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 105/2018/TLST-HS ngày 12/02/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1322/2018/QĐXXST-HS ngày 27/3/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng D; giới tính: Nam; sinh năm: 1985, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: đường N, Khu phố C, phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: Đại học; nghề nghiệp: Nguyên cán bộ Công an (đã bị tước quân tịch); con ông Nguyễn Anh M (chết) và bà Hoàng Thị S; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam ngày 04/10/2016 (có mặt).

- Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Thành C thuộc Công ty Luật TNHH Đông Phương Luật thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng D (có mặt).

- Bị hại:

Ông Dương Danh K, sinh năm: 1965 (có ý kiến xin vắng mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: chung cư S, phường C, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Hoàng P, sinh năm: 1987 (có mặt).

Địa chỉ: đường M, phường C, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố về hành vi phạm tội như sau:

1. Hành vi cưỡng đoạt 10.000.000 đồng của bà Nguyễn Hoàng P và 10.000.000 đồng của ông Dương Danh K.

Nguyễn Hoàng D nguyên là cán bộ Đội C, Phòng B, Cục KTNV - Bộ Công an được nghỉ phép từ ngày 29/8/2016 đến ngày 26/9/2016. Vào khoảng 20 giờ ngày 18/9/2016, Nguyễn Hoàng D đến trụ sở cơ quan tại Thành phố Hồ Chí Minh, đi vào phòng làm việc lấy 01 chiếc đĩa CD trắng tại tủ tài liệu của ông Lê Văn K, Đội phó Đội C, rồi vào mạng máy tính nội bộ của Đội C sao chép từ máy tính của bà Đoàn Thị T các tài liệu thuộc danh mục tài liệu mật (số điện thoại, địa chỉ email) đang do các Cục nghiệp vụ Bộ Công an phối hợp với Cục KTNV - Bộ Công an quản lý nhằm mục đích mang theo sang nước CPC đánh bạc, nếu thua hết tiền sẽ bán tài liệu này để lấy tiền đánh bạc.

Khoảng 06 giờ ngày 19/9/2016, Nguyễn Hoàng D cất giấu chiếc đĩa CD trong người đi xe máy hiệu Airblade của Nguyễn Hoàng D đến tiệm cầm đồ của anh Phạm Minh S tại số đường H, phường T, quận M, TP.Hồ Chí Minh cầm chiếc xe lấy 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng). Nguyễn Hoàng D đi xe mô tô chở khách từ cửa khẩu MB, tỉnh TN theo đường tiểu ngạch đến sòng bài LM tại nước CPC để đánh bạc và thua hết 15.000.000 đồng. Sáng ngày 21/9/2016, Nguyễn Hoàng D sử dụng Ipad, Faceboook cá nhân “Nguyen D” nhắn tin vào Facebook “Nguyen P” là em gái của Nguyễn Hoàng D để xin 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm nghìn đồng) và tiếp tục đánh bạc thua hết số tiền.

Vào lúc 03 giờ 27 phút ngày 22/9/2016, Nguyễn Hoàng D dùng Ipad, tài khoản Facebook cá nhân, mạo danh là đối tượng “giang hồ” nhắn tin cho bà Nguyễn Hoàng P, với nội dung: “Chào chị, chị có phải là em của anh Nguyễn Hoàng D không, anh Nguyễn Hoàng D hiện đang thiếu nợ chúng tôi 10 triệu, nếu chị muốn anh Nguyễn Hoàng D về ngay trong ngày hôm nay thì hãy gửi số tiền trên vào tài khoản mà hôm qua chị gửi, chúng tôi hứa sẽ đưa anh Nguyễn Hoàng D về tận nơi…” (tin nhắn đã được dịch ra tiếng Việt có dấu, bị can xác nhận). Bà Nguyễn Hoàng P nhận định đây là tin nhắn của Nguyễn Hoàng D đã mạo danh “giang hồ”, nên không gửi tiền và báo cáo Cục KTNV - Bộ Công an về hành vi phạm tội của Nguyễn Hoàng D.

Vào các ngày 23, 24/9/2016, Nguyễn Hoàng D nhắn tin cho ông Đoàn Văn H, cán bộ Đội C, Cục KTNV với nội dung: “Nguyễn Hoàng D đang ở nước CPC và thiếu nợ 10.000.000 đồng, nếu không có tiền trả nợ thì không được về”. Ngày 24/9/2016, Nguyễn Hoàng D đã gọi điện, nhắn tin cho ông Dương Danh K, Đội trưởng Đội C, Cục KTNV - Bộ Công an với nội dung: Nguyễn Hoàng D đang ở nước CPC và thiếu nợ 10 triệu đồng, nếu không có tiền trả nợ thì Nguyễn Hoàng D sẽ chết, không về cơ quan; Nguyễn Hoàng D yêu cầu ông Dương Danh K phải chuyển 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) cho Nguyễn Hoàng D vào tài khoản của Nguyễn Ngọc Kim L tại Ngân hàng DA. Do lo ngại việc Nguyễn Hoàng D xuất cảnh trái phép, có thể đem theo tài liệu mật sẽ ảnh hưởng đến đơn vị, nên ông Dương Danh K đã đưa cho ông Đoàn Văn H 5.000.000 đồng chuyển cho Nguyễn Hoàng D. Nhận được tiền, Nguyễn Hoàng D không về Việt Nam mà tiếp tục đánh bạc và thua hết số tiền.

Từ ngày 25 đến ngày 27/9/2016, Nguyễn Hoàng D dùng Ipad chụp hình đĩa CD, rồi nhắn tin và gửi kèm hình ảnh đĩa CD cho ông Đoàn Văn H, Nguyễn Duy T, là các cán bộ Phòng B, Cục KTNV - Bộ Công an với nội dung: Nguyễn Hoàng D thông báo trong đĩa CD có chứa tài liệu mật của Phòng B và yêu cầu ông Đoàn Văn H, ông Nguyễn Duy T báo cáo cho ông Dương Danh K biết nhằm mục đích để buộc ông Dương Danh K phải tiếp tục chuyển cho Nguyễn Hoàng D 5.000.000 đồng, nếu không chuyển tiền theo yêu cầu, Nguyễn Hoàng D sẽ bán các tài liệu mật này cho Đại sứ quán nước T tại nước CPC và các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc tung lên mạng Internet, sẽ cho tất cả cùng chết với Nguyễn Hoàng D. Đồng thời, Nguyễn Hoàng D nhắn tin đến điện thoại di động của ông Dương Danh K, với nội dung: Yêu cầu ông Dương Danh K phải chuyển tiếp cho Nguyễn Hoàng D 5.000.000 đồng trước 15 giờ chiều ngày 25/9/2016 vào tài khoản của Nguyễn Ngọc Kim L; Nguyễn Hoàng D cũng thông báo cho ông Dương Danh K biết là Nguyễn Hoàng D có chụp lại một số “Báo cáo tin” của ông Dương Danh K, nếu không gửi tiền thì Nguyễn Hoàng D sẽ đưa các tài liệu mật này lên mạng Internet hoặc Nguyễn Hoàng D sẽ chuyển cho Đại sứ quán nước T tại nước CPC; Nguyễn Hoàng D đe dọa nếu Nguyễn Hoàng D chết thì tất cả cùng chết. Ông Dương Danh K không chuyển tiền theo yêu cầu cho Nguyễn Hoàng D và báo cáo cho Lãnh đạo đơn vị. Vào lúc 13 giờ ngày 27/9/2016, Công an nước CPC đã tiến hành bắt giữ Nguyễn Hoàng D và giao cho Cục KTNV - Bộ Công an; sau đó, Nguyễn Hoàng D được cơ quan cho về nhà làm kiểm điểm.

Sáng ngày 29/9/2016, Nguyễn Hoàng D đến tiệm cầm đồ của Phạm Minh S bán luôn chiếc xe máy đã cầm cố trước đó lấy thêm 3.550.000 đồng (ba triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) tiếp tục đi sang sòng bài LM đánh bạc và cũng thua hết số tiền.

2. Hành vi hoạt động gián điệp của Nguyễn Hoàng D.

Trong các ngày 20/9/2016, ngày 22/9/2016, ngày 29/9/2016 và ngày 30/9/2016, Nguyễn Hoàng D liên tục dùng điện thoại; địa chỉ email gọi điện; gửi tin nhắn chào bán các tài liệu mà Nguyễn Hoàng D thu thập được với nội dung: Hiện tại Nguyễn Hoàng D đang có tài liệu mật của Bộ Công an Việt Nam cần bán và đề nghị liên lạc lại với Nguyễn Hoàng D nhưng không nhận được phản hồi của Đại sứ nước ngoài nơi Nguyễn Hoàng D gọi điện và nhắn tin đến. Tiếp đó cũng trong ngày 30/9/2016, bị cáo Nguyễn Hoàng D vào mạng Faebook của các cá nhân nước ngoài nhắn tin với nội dung chào bán các tài liệu mật của Bộ Công an Việt Nam nhưng cũng không nhận được phản hồi.

Sáng ngày 02/10/2016, Nguyễn Hoàng D đến sòng bài LM để rút 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tại tài khoản của Nguyễn Ngọc Kim L do anh Nguyễn Văn L - cán bộ Cục BVCT, Tổng cục A - Bộ Công an gửi cho Nguyễn Hoàng D vay, thì bị Công an nước CPC bắt giữ, bàn giao lại cho Công an Việt Nam. Trên đường đi, Nguyễn Hoàng D bẻ gãy ½ chiếc đĩa và khi về đến Cục KTNV, đã dấu chiếc đĩa dưới gầm làm việc của anh Vũ Văn Đ, Phó Trưởng Phòng B, Cục KTNV.

Kết quả điều tra đã xác định: Tài liệu mà Nguyễn Hoàng D đã tự ý sao chép vào đĩa CD là tài liệu nghiệp vụ của Bộ Công an. Đây là tài liệu “Mật” thuộc danh mục “Bí mật Nhà nước” do Cục KTNV quản lý trong lĩnh vực an ninh quốc phòng; các số điện thoại 023720921, 012810928 và hộp thư điện tử “chinaemb_kh@mfa.gov.cn” mà Nguyễn Hoàng D đã liên lạc, trao đổi nhằm cung cấp tài liệu “Mật” là số điện thoại và email của tổ chức nước ngoài đặt tại CPC; các cá nhân nước ngoài mà Nguyễn Hoàng D đã liên lạc nhằm chuyển giao tài liệu “Mật” là các cá nhân đang làm việc cho tổ chức nước ngoài.

Quá trình điều tra, Nguyễn Hoàng D đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như trên. Gia đình Nguyễn Hoàng D đã tự nguyện bồi thường cho ông Dương Danh K. Cơ quan An ninh điều tra đã thu giữ 2.000.000 đồng trong tài khoản của Nguyễn Ngọc Kim L giao trả cho ông Nguyễn Văn L.

Tại bản Cáo trạng số 67/CTr-VKSTC-V1, ngày 26/10/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng D về các tội: “Gián điệp” và “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm c khoản 1 Điều 80; khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hoàng D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố, bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Qua kết quả xét hỏi và các tài liệu chứng cứ đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Hoàng D đã phạm vào các tội: “Gián điệp” và “Cưỡng đoạt tài sản”. Trong hành vi chiếm đoạt tài sản bị cáo đã chiếm đoạt được của ông Dương Danh K 5.000.000 đồng. Từ những căn cứ trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 80; khoản 1 Điều 135; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; căn cứ theo Nghị quyết 41 và theo Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) thì thuộc điểm c khoản 1 Điều 110, khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng D hình phạt từ 12 đến 13 năm tù tội “Gián điệp” và 01 đến 02 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội danh trên buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 13-15 năm tù giam.

Về số vật chứng thu giữ của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý theo quy định của pháp luật theo Biên bản giao nhận tang tài vật của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Luật sư Nguyễn Thành C bào chữa cho bị cáo trình bày:

Về tội danh không tranh luận tuy nhiên về hình phạt luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt đối với bị cáo như vậy là quá nặng.

Thứ nhất, đối với tội “Gián điệp”: Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính “mật” của tài liệu mà bị cáo Nguyễn Hoàng D đã thu thập và cho rằng bị cáo Nguyễn Hoàng D đã thu thập, sau đó dùng tài liệu này để qua nước CPC bán cho phía nước ngoài, nhưng với mục đích không phải nhằm mục đích chống phá Nhà nước Việt Nam mà chỉ nhằm mục đích là để lấy tiền thỏa mãn nhu cầu đánh bạc của mình, bị cáo Nguyễn Hoàng D chưa cung cấp được các tài liệu này cho bất cứ ai.

Thứ hai, đối với tội “Cưỡng đoạt tài sản”: Luật sư cho rằng trong trường hợp này rõ ràng mức nguy hiểm trong tội danh “Cưỡng đoạt tài sản” và với khoản tiền khởi điểm là chỉ có 5.000.000 đồng thì rõ ràng là hành vi này cũng ở mức thấp nhất nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình lượng hình.

Qua đó, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Hoàng D và cho bị cáo Nguyễn Hoàng D hưởng khoản 2 Điều 80 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) mà hiện nay vẫn còn hiệu lực trong trường hợp này và có thể áp theo Nghị quyết 41/2017/QH14 để cho bị cáo Nguyễn Hoàng D được hưởng các tình tiết giảm nhẹ ở điểm b, h, i, s, và x đối với khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xem xét hoàn cảnh, xem xét hành vi và xem xét mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng D mà tuyên buộc cho bị cáo Nguyễn Hoàng D một mức hình phạt vừa phải để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

Trong phần tranh luận của mình, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bảo lưu tất cả những quan điểm luận tội và tranh luận bổ sung vấn đề về tính chất của tài liệu mà bị cáo Nguyễn Hoàng D đã thu thập như sau: Qua trưng cầu giám định tài liệu và đã được xác định là tài liệu thuộc dạng “tuyệt mật” của Nhà nước trong lực lượng Công an và cũng đã được quy định tại Quyết định số 13/2010/QĐ-TTg ngày 12/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Do vậy, căn cứ vào mức độ của tài liệu mà bị cáo đã thực hiện hành vi Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã truy tố đối với bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 80 là có căn cứ, hành vi của bị cáo thực hiện nhưng đã được ngăn chặn kịp thời nhờ sự phối hợp giữa Công an Việt Nam và Công an nước CPC đã bắt giữ bị cáo nên bị cáo chưa kịp phát tán các tài liệu ra cho các đối tượng nước ngoài.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo, bị cáo đã cảm thấy rất ân hận về tội lỗi của mình, chỉ vì một phút thiếu suy nghĩ mà bị cáo đã đánh mất tất cả tương lai của mình, rất may hành vi của bị cáo đã bị các cơ quan chức năng ngăn chặn kịp thời nếu không bị cáo còn sai trái nữa. Bị cáo không có mong muốn gì hơn là được sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước cho bị cáo sớm có cơ hội làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an, Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố ban đầu có những sai sót như sau:

- Bị cáo Nguyễn Hoàng D bị Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra, truy tố về tội “Gián điệp” theo điểm c khoản 1 Điều 80 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt cao nhất là tử hình theo quy định tại Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì buộc phải có Luật sư trong giai đoạn điều tra, truy tố nhưng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chưa chỉ định Luật sư cho bị cáo là chưa đúng thủ tục tố tụng. Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã bổ sung thủ tục luật sư chỉ định cho bị cáo Nguyễn Hoàng D. Đây là các sai sót, các cơ quan tố tụng từ giai đoạn điều tra, truy tố cần rút kinh nghiệm.

Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và không có khiếu nại gì.

[2] Xét thấy, bị cáo Nguyễn Hoàng D do đánh bạc thua hết tiền nên đã có hành vi thực hiện nhắn tin đe dọa, uy hiếp tinh thần của ông Dương Danh K nhằm chiếm đoạt tiền, cùng thời gian này bị cáo đã có hành vi liên lạc với các cá nhân, tổ chức nước ngoài để nhằm cung cấp các tài liệu nghiệp vụ của cơ quan Công an thuộc danh mục tài liệu “mật” mà bị cáo đã sao chép vào đĩa CD từ việc lấy cắp các thông tin lưu trữ trong máy tính của cơ quan Công an nơi bị cáo công tác nhằm bán các tài liệu này cho các tổ chức, cơ quan nước ngoài để lấy tiền đánh bạc, nhưng chưa bán được thì bị bắt. Như vậy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Hoàng D đã phạm vào các tội “Gián điệp” và “Cưỡng đoạt tài sản”. Tội phạm, hình phạt được quy định tại Điều 80; Điều 135 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Bị cáo đã có hành vi sử dụng tin nhắn đe dọa, uy hiếp tinh thần đối với ông Dương Danh K nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản và thực tế đã chiếm đoạt được 5.000.000 đồng của ông Dương Danh K, hành vi này thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 135 của Bộ luật hình sự. Đặc biệt bị cáo đã có hành vi thu thập nhằm cung cấp các tài liệu thuộc danh mục tài liệu mật cho các tổ chức, cơ quan nước ngoài thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 80 Bộ luật hình sự. Đối với hành vi Cáo trạng truy tố bị cáo có hành vi cưỡng đoạt tài sản đối với bà Nguyễn Hoàng P; kết quả xét hỏi, thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, bà Nguyễn Hoàng P khẳng định khi nhận các nội dung tin nhắn của bị cáo thì bà Nguyễn Hoàng P không bị đe dọa, uy hiếp về mặt tinh thần vì bà biết đó là các tin nhắn của Nguyễn Hoàng D bịa đặt ra, chính vì lẽ đó bà đã không chuyển tiền theo yêu cầu của Nguyễn Hoàng D; hành vi này chưa đủ yếu tố quy kết bị cáo có hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần của bà Nguyễn Hoàng P nhằm chiếm đoạt tài sản nên xác định lại tư cách tham gia tố tụng của bà Nguyễn Hoàng P là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Do bị cáo cùng một lúc phạm vào hai tội nên cần áp dụng Điều 50 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo.

Tuy nhiên khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét thái độ của bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự; hậu quả vụ án được ngăn chặn kịp thời nên các tài liệu bị cáo thu thập chưa bị phát tán, do vậy cần xem xét hậu quả vụ án có phần hạn chế. Trong hành vi cưỡng đoạt tài sản số tiền bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, đã được bồi thường toàn bộ cho người bị hại, gia đình bị cáo là gia đình có truyền thống trong ngành Công an, cha mẹ bị cáo đều được tặng thưởng nhiều huy chương trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc để áp dụng các điểm b (trong tội cưỡng đoạt tài sản), p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt nên chấp nhận một phần quan điểm của người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại là ông Dương Danh K đã nhận lại số tiền 5.000.000 đồng do gia đình bị cáo Nguyễn Hoàng D bồi thường và không có yêu cầu gì thêm; bà Nguyễn Hoàng P không có yêu cầu gì nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

[3] Xử lý vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone; 01 (một) Ipad (bể màn hình) và 01 (một) ổ cứng là tài sản liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 (một) thẻ sim và 01 (một) đĩa CD (đĩa bị gãy bể) là tài sản liên quan đến hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng D phạm các tội: “Gián điệp” và “Cưỡng đoạt tài sản”.

1/ Áp dụng Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 80; khoản 1 Điều 135; Điều 33; Điều 45; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 và Điều 50 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng D 07 (bảy) năm tù về tội: “Gián điệp” và 01 (một) năm tù về tội: “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả 02 tội trên buộc bị cáo Nguyễn Hoàng D phải chấp hành là: 08 (tám) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2016.

2/ Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone; 01 (một) Ipad (bể màn hình) và 01 (một) ổ cứng.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) thẻ sim và 01 (một) đĩa CD (đĩa bị gãy bể). (Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 45/18 ngày 02/11/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh)

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3520
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2018/HSST ngày 16/04/2018 về tội gián điệp và cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:109/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về

Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!