Bản án 108/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ông Trần Thanh Quân - Kiểm sát viên Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 113/2020/HSST ngày 16 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2020/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Ngô Văn H - Sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản P, xã K, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Ngô Văn H1 và bà Trần Thị Q; Có vợ là Trần Thị A (đã ly hôn) và có 02 con (con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2010); Tiền án, tiền sự: Không:

Nhân thân: Ngày 15/8/2018 bị Công an huyện S xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 17/6/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Hồi 18 giờ 00’ ngày 17/6/2020 tổ công tác Đồn biên phòng C, huyện S phối hợp cùng Công an xã C làm nhiệm vụ tại khu vực bản B, xã C, huyện S phát hiện bắt quả tang Ngô Văn H đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý. Thu giữ tại túi áo ngực bên trái đang mặc của H 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa chất bột màu trắng (H khai nhận là Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Ngày 19/6/2020 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng, trích mẫu giám định kết quả: Cân tịnh số bột liên kết màu trắng thu giữ của H có khối lượng 0,29 gam, đã trích 0,13 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu H2, vật chứng còn lại 0,16 gam ký hiệu H1.

Kết luận giám định số 1003 ngày 20/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H2 là ma túy, loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,29 gam; Loại Heroine”.

Quá trình điều tra bị cáo Ngô Văn H khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 17/6/2020 H mang theo số tiền 310.000VNĐ và 01 xi lanh đi bộ từ bản X lên bản O, cùng xã K, Sông Mã tìm mua ma túy sử dụng. Đến đầu bản O thì H gặp 1 người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết đang đứng ở ven đường, H hỏi người phụ nữ này mua được một gói Heroine với số tiền là 300.000VNĐ. Mua bán xong, H trích một ít Heroine ra H với nước và dùng xi lanh trích vào cơ thể ở bụi cây ven đường. Sử dụng xong, H vứt xilanh rồi gói số ma túy lại như ban đầu cất vào túi áo ngực đang mặc đi bộ đến đường quốc lộ 4G thì H bắt xe khách xuống cầu cứng thuộc bản Nhạp, Chiềng Cang hết 10.000VNĐ, sau đó xin ngồi nhờ xe máy của một người phụ nữ không quen biết vào bản B, xã C, huyện S chơi. Đến khoảng 17 giờ 30 cùng ngày H đi bộ về đến cuối bản B, xã C thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 111/CT-VKSSM ngày 15 tháng 9 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Ngô Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Ngô Văn H từ 18 - 24 tháng tù. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng các phong bì niêm phong và 01 mảnh nilon. Buộc bị cáo chịu án phí hình sự, tuyên quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 18 giờ 00 phút, ngày 17/6/2020 đối với Ngô Văn H vì có hành vi cất giấu 01 gói chất bột liên kết màu trắng, H khai nhận là Heroine.

- Vật chứng bị thu giữ là 01 gói chất bột liên kết màu trắng; Kết luận giám định số 1003 ngày 20/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là ma túy: “…Loại Heroine;… Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,29 gam; Loại Heroine”.

- Lời khai bị cáo về việc vì đã sử dụng ma tuý từ năm 2009 nên ngày 17/6/2020 có lên bản B, xã K mua ma túy về mục đích để sử dụng, sau khi mua được đã trích ra một ít để sử dụng và cất số ma túy còn lại đem theo trong người, khi đang trên đường đi chơi trở về nhà thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ ma túy.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 17/6/2020 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,29 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm trách nhiệm hình sự để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn không có tài sản gì có giá trị, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người phụ nữ dân tộc Mông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai chỉ gặp ngoài đường, không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, cùng mảnh nilon và số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là những vật không có giá trị sử dụng và vật nhà nước cấm tàng trữ cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Ngô Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Ngô Văn H 20 tháng tù. Thời hạn thụ hình tính từ ngày 17/6/2020.

 - Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,16 gam Heroine, cùng 01 mảnh nilông màu xanh và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở được đựng trong 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã được niêm phong. Trên giấy dán niêm phong có mã số 000653.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/9/2020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 28/9/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về