Bản án 108/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 96/2020/TLST-HS ngày 28/7/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXXST-HS ngày 24/8/2020 đối với bị cáo:

Trương Văn L, sinh năm 1991 tại tỉnh Hà Nam; nơi đăng ký NKTT, chỗ ở: Xóm 3, thôn MN, xã NS, huyện KB, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T, sinh năm 1964 và bà Đỗ Thị C, sinh năm 1961; vợ, con: chưa có; tiền án: Ngày 26/02/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18/5/2011 Chủ tịch  y ban nhân dân thành phố Phủ Lý ra Quyết định đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh trong thời gian 24 tháng; ngày 10/01/2014 Chủ tịch y ban nhân dân xã Ng c Sơn, huyện Kim Bảng ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời gian 03 tháng; ngày 15/10/2014, Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc trong thời gian 24 tháng.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/5/2020 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người làm chứng:

1/ Anh Đỗ Đình H, vắng mặt.

2/ Anh Trần Nam T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 04/5/2020, Trương Văn L đang ở nhà thì có bạn nghiện mới quen tên là Kiên khoảng 32 tuổi nhà ở Tân Sơn, huyện Kim Bảng điều khiển xe mô tô đến rủ đi mua ma túy về cùng sử dụng nên đồng ý. Kiên điều khiển xe chở L đến khu vực trường Cao đẳng thủy lợi Bắc Bộ thuộc xóm 4, xã Liêm Chung, thành phố Phủ Lý thì dừng lại và bảo Lực đứng chờ. Kiên điều khiển xe mô tô đi, khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho L 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và nói: “hàng ở trong đấy”. L mở ra kiểm tra thấy bên trong bao thuốc có 01 gói giấy bạc màu vàng, biết đó là ma túy nên L cầm ở tay trái rồi lên xe để Kiên chở đi tìm chỗ sử dụng. Khi Kiên điều khiển xe đến khu vực tổ 9, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý thì lực lượng Công an thành phố Phủ Lý phát hiện nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. L xuống xe còn Kiên lợi dụng sơ hở bỏ chạy thoát. Tại chỗ, L tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận đó là ma túy mục đích cất giữ để sử dụng.

Thu giữ vật chứng gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel; 01 chiếc xilanh loại 3ml/cc.

Ngày 04/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trương Văn L tại xóm 3, thôn Mã Não, xã Ng c Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam nhưng không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến vụ án.

Tại Bản kết luận giám định số 68/PC09-MT ngày 07/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì kí hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,158 gam loại: Heroine” Bản cáo trạng số 100/CT-VKS-PL ngày 27/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Trương Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Văn L từ 30 đến 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine cùng bao gói, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 chiếc xi lanh loại 3ml/cc; trả lại cho Trương Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel.

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm hòa nhập cộng đồng trở thành người tốt có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của h , được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trương Văn L đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được xét hỏi tại phiên tòa phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 04/5/2020, tại tổ 9, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; Trương Văn L đang cất giữ trái phép 0,158 gam chất ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an thành phố Phủ Lý phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, đã từng bị xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến nay chưa được xóa án tích, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhiều lần, song bị cáo không lấy đó làm bài h c để r n luyện cải tạo chính mình, mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử s xem xét trong khi quyết định hình phạt.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm” nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa c ng như tại cơ quan điều tra, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân là lao động tự do, mục đích tàng trữ để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác:

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Trương Văn L: Quá trình điều tra L khai do bạn nghiện mới quen, khoảng 32 tuổi, tên là Kiên, nhà ở xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đi mua đưa cho L cất giữ để sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng tiến hành xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên Kiên, ngoài lời khai của L không còn tài liệu, chứng cứ nào khác. Do vậy chưa đủ căn cứ để xử lý người đã đưa ma túy cho L trong vụ án này.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với toàn bộ số Heroine cùng bao gói hoàn trả sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 chiếc xi lanh loại 3ml/cc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần trả lại cho Trương Văn L là phù hợp quy định của pháp luật nhưng tạm giữ điện thoại để đảm bảo công tác thi hành án.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Áp dụng Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trương Văn L phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Trương Văn L 33 (ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/5/2020.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 68/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng:

01 chiếc xilanh loại 3ml/cc.

- Trả lại Trương Văn L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 31/7/2020.

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trương Văn L phải nộp 200.000 đồng. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về