Bản án 108/2020/HC-PT ngày 27/05/2020 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 108/2020/HC-PT NGÀY 27/05/2020 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hành chính thụ lý số 432/2019/TLPT-HC ngày 16/12/2019 về việc “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” do có kháng cáo của người khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 75/2019/HC-ST ngày 22 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh T.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3632/2020/QĐ-PT ngày 13/5/2020 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Bùi Văn M, sinh năm 1977;

Địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện M, tỉnh T; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Ngọc T và ông Bùi Quang A; địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện M, tỉnh T; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Người bị kiện:

2.1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) và UBND tỉnh T. Địa chỉ: 35 Đại lộ L, phường Đ, thành phố T, tỉnh T.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình X - Chủ tịch UBND tỉnh T.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đức Q - Phó Chủ tịch UBND tỉnh T; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2.2. Chủ tịch UBND và UBND huyện M, tỉnh T. Địa chỉ: Thị trấn K, huyện M, tỉnh T. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Đình M - Chủ tịch UBND huyện M.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Ngọc D - Phó Chủ tịch UBND huyện M; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

3.1. UBND xã X, huyện M, tỉnh T Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Văn M - Chủ tịch UBND xã X;

vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3.2. Bà Bùi Thị S, sinh năm 1978 (vợ ông M); địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện M, tỉnh T; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Ngọc T và ông Bùi Quang A.

Người kháng cáo: Ông Bùi Văn M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 04/11/2004, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh T ban hành Quyết định số 3506/QĐ-UB thu hồi 158.784m2 đất tại xã X, huyện M giao cho Ban Quản lý Dự án 5 - Bộ Giao thông vận tải để xây dựng đường Hồ Chí Minh từ Km 95+600 đến Km 100. Theo đó, hộ gia đình ông Bùi Văn M bị thu hồi 486m2 đất vườn tại thửa số 220 tờ bản đồ 8 và 531m2 đất màu tại thửa số 154 tờ bản đồ 6, bản đồ tuyến đường Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh T đã ban hành Quyết định số 4043/QĐ-CT ngày 15/12/2004, Quyết định số 4205/QĐ-CT ngày 24/12/2004, Quyết định số 457/QĐ-CT ngày 15/02/2005 và Quyết định số 526/QĐ-CT ngày 23/02/2005 về việc phê duyệt dự toán bồi thường thực hiện Dự án đường Hồ Chí Minh từ Km 95+600 đến Km 100 qua X, huyện M, tỉnh T. Theo đó, gia đình ông Bùi Văn M được bồi thường đất vườn với giá 18.000đ/m2, đất trồng màu 9.800đ/m2. Tháng 02/2005, ông M nhận đủ số tiền bồi thường về đất là 13.951.800đ cùng các khoản bồi thường, hỗ trợ khác.

Năm 2006, UBND tỉnh T thu hồi bổ sung của gia đình ông M 400m2 đất ở và 85m2 đất vườn.Theo đó, gia đình ông M được bồi thường đất ở với giá 40.000đ/m2, đất vườn 17.000đ/m2. Ông M đã nhận đủ số tiền bồi thường về đất là 17.445.000đ.

Ngày 24/11/2017, cho rằng UBND huyện M thu hồi đất năm 2005 nhưng khi thực hiện bồi thường áp dụng đơn giá cũ không áp dụng đơn giá năm 2005, ông Bùi Ngọc T và ông Bùi Quang A đại diện cho 54 hộ dân ở xã X, huyện M (trong đó có ông Bùi Văn M) có đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND huyện M.

Ngày 19/01/2018, Chủ tịch UBND huyện M ban hành Quyết định số 90/QĐ-UBND không chấp nhận khiếu nại của các hộ dân.

Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện M, ông Bùi Ngọc T và ông Bùi Quang A đại diện cho các hộ dân tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh T với nội dung: Đất ở của 54 hộ dân xã X nằm ở vị trí 1 khu vực 2 nhưng UBND huyện M xác định vị trí 3 khu vực 2 là không đúng; UBND huyện M không bồi thường theo Quyết định số 4307/2004/UBND ngày 30/12/2004 của UBND tỉnh quy định đơn giá các loại đất trên địa bàn tỉnh T là không đảm bảo quyền lợi cho các hộ dân.

Ngày 30/3/2018, Chủ tịch UBND tỉnh T ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 1096/QĐ-UBND với nội dung: Khiếu nại của ông Bùi Ngọc T và ông Bùi Quang A là không có cơ sở.

Không đồng ý với các quyết định giải quyết khiếu nại trên, ông Bùi Văn M có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T giải quyết: Hủy Quyết định số 1096/QĐ-UBND ngày 30/3/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh T và Quyết định số 90/QĐ-UBND ngày 19/01/2018 của Chủ tịch UBND huyện M, yêu cầu áp giá bồi thường lại cho gia đình ông theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 75/2019/HC-ST ngày 22/10/2019, Tòa án nhân dân tỉnh T đã quyết định: Bác đơn khởi kiện của ông Bùi Văn M yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy Quyết định số 90/QĐ-UBND ngày 19/01/2018 của Chủ tịch UBND huyện M, hủy Quyết định số 1096/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh T về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Ngọc T, ông Bùi Quang A và một số công dân xã X, huyện M và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện bồi thường lại đối với hộ ông Bùi Văn M.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 30/10/2019, ông Bùi Văn M và người đại diện theo ủy quyền của ông Bùi Văn M là ông Bùi Quang A và ông Bùi Ngọc T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông Bùi Văn M, ông Bùi Quang A và ông Bùi Ngọc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính không chấp nhận kháng cáo của ông Bùi Văn M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Ngày 22/11/2018, ông Bùi Văn M khởi kiện đề nghị hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 90/QĐ-UBND ngày 19/01/2018 của Chủ tịch UBND huyện M và Quyết định giải quyết khiếu nại số 1096/QĐ-UBND ngày 30/3/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh T là khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Tòa án nhân dân tỉnh T thụ lý giải quyết theo đúng quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.

[2] Xét tính hợp pháp của Quyết định số 90/QĐ-UBND ngày 19/01/2018 của Chủ tịch UBND huyện M và Quyết định số 1096/QĐ-UBND ngày 30/3/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh T:

[2.1] Về thẩm quyền ban hành: Chủ tịch UBND huyện M và Chủ tịch UBND tỉnh T ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là đúng quy định tại Điều 18, Điều 21 Luật khiếu nại năm 2011.

[2.2] Về nội dung: Về bồi thường đất nông nghiệp và đất vườn thu hồi năm 2004, thực hiện dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh, tại Quyết định số 3506/QĐ-UB ngày 04/11/2004 của Chủ tịch UBND tỉnh T, kèm theo Tờ trình số 348/TTr-UB ngày 18/6/2004 của UBND huyện M, hộ gia đình ông Bùi Văn M bị thu hồi 486m2 đất vườn tại thửa số 220 tờ bản đồ 8 và 531m2 đất màu tại thửa số 154 tờ bản đồ 6, bản đồ tuyến đường Hồ Chí Minh. Tại thời điểm này Quyết định số 1531/2003/QĐ-UBND ngày 16/5/2003 của UBND tỉnh T chỉ quy định khung giá đối với đất nông nghiệp cao nhất là 9.800đ/m2, thấp nhất là 870đ/m2; đất vườn là 18.000đ/m2. Tại Quyết định số 88/QĐ-UBND ngày 10/3/2004 của UBND huyện M quy định về giá đất nông nghiệp giữ nguyên mức giá như Quyết định số 1531/2003/QĐ-UBND. Do đó, hộ gia đình ông M được bồi thường đất sản xuất nông nghiệp với đơn giá 9.800đ/m2 là mức giá cao nhất theo Quyết định số 1531/2003/QĐ-UBND của UBND tỉnh T là đã đảm bảo quyền lợi.

[2.3] Về bồi thường đất ở và đất vườn thu hồi năm 2006: Đất của hộ gia đình ông M đã được kiểm kê và bồi thường theo Quyết định số 268/QĐ-UBND ngày 25/01/2006 của UBND tỉnh T; theo đó bồi thường đất ở 400m2 với đơn giá 40.000đ/m2, đất vườn 85m2 với đơn giá 17.000đ/m2. Hộ ông M đã nhận đủ số tiền bồi thường về đất cùng các khoản bồi thường, hỗ trợ khác; hộ ông M không có khiếu nại gì. Tại thời điểm phê duyệt bồi thường, Quyết định số 4307/2004/QĐ-UBND ngày 30/12/2004 của UBND tỉnh T về “quy định giá các loại đất”, tại Biểu số 7 quy định đất ở miền núi khu vực 1, vị trí 3, đơn giá 40.000đ/m2 và tại Điều II giao cho “...UBND huyện, thị xã, thành phố căn cứ quy định tại quyết định này... khẩn trương phân vùng, phân hạng đất, phân loại đường và vị trí cụ thể ở địa phương để thực hiện...”. Tại Quyết định số 900/QĐ- UBND ngày 15/8/2005 của UBND huyện M về việc“Phân hạng đất nông nghiệp, phân khu vực, vị trí đất ở và đất sản xuất kinh doanh tại xã X”, đất ở tại xã X chia ba khu vực, nhưng cả ba khu vực đều xác định một vị trí là vị trí 3. Do đó, hộ ông M được bồi thường đất ở với đơn giá 40.000đ/m2 là theo đúng Quyết định số 4307/QĐ-UBND của UBND tỉnh T.

[3] Tại các Quyết định số 90/QĐ-UBND ngày 19/01/2018 của Chủ tịch UBND huyện M và Quyết định số 1096/QĐ-UBND ngày 30/3/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh T về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Ngọc T, ông Bùi Quang A và một số công dân xã X, huyện M đã không chấp nhận khiếu nại là có căn cứ. Toà án cấp sơ thẩm đã bác các yêu cầu của ông M đề nghị huỷ quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên và bác yêu cầu được áp giá bồi thường lại cho gia đình ông M là đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông M.

[4] Về án phí: Hộ gia đình ông M thuộc xã có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt biệt khó khăn, là đối tượng được trợ giúp pháp lý nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, án phí và lệ phí Tòa án:

Bác yêu cầu kháng cáo của ông Bùi Văn M; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 75/2019/HC-ST ngày 22 tháng 10 năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá.

Về án phí: Ông Bùi Văn M không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2020/HC-PT ngày 27/05/2020 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Số hiệu:108/2020/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về