Bản án 108/2019/HNGĐ-ST ngày 08/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN - THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 108/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 10 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 176/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 03 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:93/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 22/8/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Th, sinh năm 1987 (Có mặt)

Bị Đơn: Anh Nguyễn Văn Hg, sinh năm 1985 (Vắng mặt)

HKTT: xóm TS, xã QTh, TPTN, tỉnh TN

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1]Ti đơn khởi kiện ngày đề ngày 01/3/2019, đơn khởi kiện bổ sung ngày 13/3/2019 và bản tự khai, biên bản hoà giải, nguyên đơn chị Lê Thị Th trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn Hg kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã BH, huyện YT, tỉnh BG trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống với bố mẹ chồng tại xã BH, huyện YT, tỉnh BG tuy nhiên do điều kiện vợ chồng làm ăn ở Thái Nguyên nên vợ chồng đã chuyển về sinh sống ở Thái Nguyên. Trong quá trình chung sống giữa chị và anh Hg chung sống hạnh được khoảng 02 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân sau khi kết hôn chị phát hiện anh Hg bị mắc tệ nạn xã hội, sử dụng ma túy nên không chịu làm ăn sinh ra trộm cắp đồ của gia đình cũng như của hàng xóm. Tháng 12 năm 2016 anh Hg trộm cắp chè nên bị bắt và bị Tòa án xét xử nhưng cho hưởng án treo, chị và gia đình đã động viên anh Hg cai nghiện đồng thời để vợ chồng cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên anh Hg không từ bỏ được ma túy cũng như không chịu tu chí làm ăn hơn nữa do anh nghiện nên vợ chồng cũng khó khăn trong việc sinh con, chị cũng đã ngồi nói chuyện cùng gia đình 2 bên nhiều lần không được, anh Hg không từ bỏ được ma túy, nay chị xác định hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, chị không thê tiếp tục chung sống với anh Hg, tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn.

Về con chung: Chị xác định quá trình chung sống vợ chồng không có con chung. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, vợ chồng không nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên đã thực hiện việc tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn Hg theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, anh Nguyễn Văn Hg không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định; do vậy, Tòa án không xác định được lời khai của anh Nguyễn Văn Hg và không tiến hành hòa giải được.

[3]. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ tại địa phương nơi cư trú của chị Th và anh Hg về tình trạng hôn nhân của vợ chồng. Kết quả xác định: Sau khi kết hôn một thời gian chị Th và anh Hg về chung sống tại xóm TS, xã QTh, TPTN, tỉnh TN. Quá trình chung sống, anh Hg và chị Th thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, từ khi chị Th làm đơn ly hôn gửi đến Tòa án thì anh Hg bỏ đi khỏi địa phương không còn thường xuyên sinh sống ở địa phương, hiện nay anh Hg chưa cắt khẩu, chuyển khẩu đi đâu.

[4]. Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thành phố Thái Nguyên phát biểu ý kiến: từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự, chấp hành đúng thời hạn chuẩn bị xét xử. Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: áp dụng Điều 28, 35, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016. Về quan hệ hôn nhân chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Th, cho chị Lê Thị Th được ly hôn với anh Nguyễn Văn Hg. Về con chung không có không giải quyết. Về tài sản chung, công nợ chung không có nên không giải quyết. Về án phí chị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

1.1 Về Thẩm quyền: Theo đơn yêu cầu ly hôn giữa nguyên đơn là Chị Lê Thị Th, sinh năm 1987 với bị đơn anh Nguyễn Văn Hg, sinh năm 1985 cùng HKTT: xóm TS, xã QTh, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

1.2 Thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ và tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng đối với anh Nguyễn Văn Hg theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật tố tụng dân sự; tuy nhiên, anh Nguyễn Văn Hg không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án; do vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được, phải đưa ra xét xử công khai. Tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Văn Hg vắng mặt lần thứ hai, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn Hg.

[2].Về nội dung vụ án:

[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Th và anh Nguyễn Văn Hg kết hôn năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã BH, huyện YT, tỉnh BG trên cơ sở tự nguyện và được tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Vì vậy, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do sau khi kết hôn chị Th phát hiện anh Hg bị mắc tệ nạn xã hội, sử dụng ma túy, không chịu làm ăn sinh ra trộm cắp đồ của gia đình cũng như của hàng xóm. Chị Th và gia đình đã động viên anh Hg cai nghiện đồng thời để vợ chồng cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, tuy nhiên anh Hg không từ bỏ được ma túy cũng như không chịu tu chí làm ăn hơn nữa do anh nghiện nên vợ chồng cũng khó khăn trong việc sinh con, nay chị xác định hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, chị không thê tiếp tục chung sống với anh Hg, tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn.

Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của chị Th và anh Hg tại địa phương xác định: Hiện nay anh Hg chưa cắt khẩu, chuyển khẩu đi đâu, quá trình chung sống, anh Hg và chị Th thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, hiện vợ chồng không ở với nhau từ khi chị Th gửi đơn ly hôn với anh Hg đến Tòa án thì anh Hg bỏ đi khỏi địa phương không còn thường xuyên sinh sống ở địa phương.

Từ những mâu thuẫn trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ để xác định hôn nhân giữa chị Th và anh Hg đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc duy trì quan hệ hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả 2 bên nên cần chấp yêu cầu xin ly hôn của chị Th, cho chị Th được ly hôn với anh Hg là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng không có con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Th xác định vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai, không cho ai vay nợ không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Chị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị Th.

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Văn Hg.

2. Về con chung: Chị Th xác định không có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Th xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0007403 ngày 13/03/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Án xét xử công khai có mặt nguyên đơn chị Th, vắng mặt bị đơn anh Hg. Báo cho chị Th biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho anh Hg biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2019/HNGĐ-ST ngày 08/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:108/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về