Bản án 1080/2019/DS-PT ngày 22/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1080/2019/DS-PT NGÀY 22/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 233/2019/TLPT-DS ngày 24 tháng 4 năm 2019 về vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 51/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận Q - Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo và kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5069/2019/QĐ-PT ngày 22 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 9465/2019/QĐ-PT ngày 11/11/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Kim D, sinh năm 1969 (vắng mặt)

Địa chỉ: 160/29 đường H, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bà D: Ông Lưu Tuấn L - sinh năm 1981 là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 12/11/2018) (có mặt).

Địa chỉ: C3/45A đường C, ấp X, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn:

1. Bà Ngô Cẩm H, sinh năm 1967 (có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Ông Trần Hoành S, sinh năm 1955 (có đơn xin xét xử vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Số 224/27 đường H, Phường B, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Ngô Cẩm H: Ông Nguyễn Quốc T - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV T – Đoàn Luật sư tỉnh D.

Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Trần Kim D.

Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân Quận Q - Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 25/09/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Trần Kim D và đại diện nguyên đơn là ông Lưu Tuấn L trình bày:

Từ năm 2015 đến năm 2017 vợ chồng bà Ngô Cẩm H và ông Trần Hoành S vay tiền của bà Trần Kim D nhiều lần. Sau khi tổng kết số nợ ngày 16/04/2017 ông S và bà H ký giấy mượn tiền xác nhận vay của bà D số tiền 3.600.000.000 đồng, hẹn đến ngày 16/02/2018 sẽ hoàn trả hoặc sẽ trả khi nào bà D báo trước 01 tháng. Lãi suất hai bên thỏa thuận là 5%/tháng.

Giấy mượn tiền phía người mượn do bà H và ông S cùng ký, có bà Hạnh là người làm chứng. Sau khi viết giấy mượn tiền, bà H và ông S không trả tiền nợ gốc và lãi cho bà D mặc dù đã nhắc nhiều lần. Số tiền bà D cho bà H và ông S vay, bà D cũng đi vay của người khác và phải trả lãi cho họ dù bà H ông S không trả tiền lãi cho bà D.

Do nợ lãi quá nhiều, ngày 15/12/2017 ông S bà H nhờ bà D vay thêm 400.000.000 đồng để trả tiền lãi cho khoản tiền đã vay ngày 16/04/2017. Bà H có viết giấy vay tiền của bà D và ký tên, ông S không ký vào giấy này vì không có mặt nhưng là khoản vay chung của vợ chồng bà H và ông S vì vay để trả nợ lãi cho khoản vay chung. Hai bên thỏa thuận tiền lãi của khoản vay 400.000.000 đồng là 3,5%/tháng, bà H và bà D chia đôi tiền lãi phải trả, tức bà H trả tiền lãi 1.75%/tháng cho bà D đối với khoản tiền vay 400.000.000 đồng.

Ngày 19/04/2018 bà H viết giấy xác nhận trả khoản nợ tiền vay 3.600.000.000 đồng, theo đó cam kết trả dần số nợ vào ngày 30/07/2018, ngày 30/08/2018 và ngày 30/09/2018, mỗi lần trả 250.000.000 đồng và xin miễn tiền lãi từ tháng 03/2018 đến 30/09/2018. Tuy nhiên sau khi viết cam kết bà H và ông S cũng không trả một khoản tiền nào nên bà D không đồng ý cho bà H ông S giảm lãi theo phương án ngày 19/04/2018 nữa.

Từ khi vay tiền ông S bà H không trả nợ gốc và không trả đủ tiền lãi cho bà D đúng thỏa thuận. Bà D xác nhận từ khi vay hai khoản tiền nêu trên, ông S bà H đã trả tiền lãi cho bà D số tiền 1.062.600.000 đồng theo những chứng từ bà H đã nộp cho Tòa án, đây là trả tiền lãi chứ không phải trả nợ gốc, số tiền này là vẫn chưa trả đủ tiền lãi tính trên số tiền đã vay 4.000.000.000 đồng theo thỏa thuận cũng như theo quy định pháp luật.

Nay bà D yêu cầu ông S và bà H cùng có trách nhiệm trả ngay cho bà D số tiền nợ gốc là 4.000.000.000 đồng. Về tiền lãi yêu cầu bị đơn phải trả thêm số tiền lãi của khoản vay 3.600.000.000 đồng là 3.770.000.000 đồng, tiền lãi của khoản vay 400.000.000 đồng là 173.020.000 đồng, tổng cộng tiền lãi phải trả tạm tính là 3.943.020.000 đồng. Số tiền bà D cho ông S bà H vay là tiền riêng của bà D không liên quan gì tới ai.

Tại bản khai ngày 30/10/2018 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là bà Ngô Cẩm H trình bày:

Bà Ngô Cẩm H thừa nhận có ký giấy mượn của bà D số tiền 3.600.000.000 đồng ngày 16/04/2017 và ký giấy thống nhất mượn ngoài trả cho bà D 400.000.000 đồng ngày 15/12/2017 theo hai giấy mượn tiền bà D đã nộp.

Về số tiền 3.600.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày 16/04/2017 bà H mượn của bà D, không lãi suất. Sau khi vay tiền bà H có trả dần cho bà D như đã liệt kê tại đơn ngày 13/11/2018 kèm các chứng từ bà D ký xác nhận. Tổng số tiền bà H đã trả cho bà D là 1.062.600.000 đồng nên số nợ còn lại là 3.600.000.000 đồng - 1.062.600.000 đồng = 2.537.400.000 đồng, bà H đồng ý trả dần mỗi tháng 15.000.000 đồng.

Về số tiền 400.000.000 đồng theo giấy mượn ngày 15/12/2017, bà H không nhận mà viết giấy để bà D mượn của người khác trả vào số tiền gốc 3.600.000.000 đồng đã mượn trước đó nên trong giấy ngày 15/12/2017 có ghi “thống nhất mượn ngoài trả vào sổ cho chị Dung: 400.000.000”. Do số tiền này bà H không mượn nên không có trách nhiệm phải trả cho bà D.

Số tiền bà H vay của bà D tổng cộng là 3.600.000.000 đồng là nợ riêng của bà H, bà H vay của bà D để làm ăn riêng không liên quan gì đến ông S chồng của bà H. Ông S ký vào giấy mượn tiền ngày 16/04/2017 là do bà D yêu cầu.

Tại bản khai và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông Trần Hoành S trình bày:

Ngày 16/04/2017 bà H (vợ của ông S) cần chi phí kinh doanh nên vay của bà D số tiền 3.600.000.000 đồng. Đây là khoản nợ riêng của bà H không liên quan gì đến ông S, ông S ký vào giấy mượn tiền là do bà D yêu cầu. Sau đó bà H và bà D trao đổi thế nào về việc trả nợ ông S hoàn toàn không biết.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 51/2019/DS-ST ngày 06/03/2019 của Tòa án nhân dân Quận Q - Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Kim D.

Bà Ngô Cẩm H và ông Trần Hoành S cùng có nghĩa vụ trả cho bà Trần Kim D số tiền còn nợ là 2.913.182.400 đồng (hai tỉ, chín trăm mười ba triệu, một trăm tám mươi hai nghìn, bốn trăm đồng) theo Giấy mượn tiền đề ngày 16/04/2017.

Việc trả tiền được thực hiện một lần tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ khi bà Trần Kim D có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền nói trên, hàng tháng bà Ngô Cẩm H và ông Trần Hoành S còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Kim D về yêu cầu bà Ngô Cẩm H và ông Trần Hoành S phải trả số tiền nợ gốc theo giấy đề ngày 15/12/2017 và tiền lãi vượt quá quy định, tổng số tiền là 1.839.157.600 đồng (một tỉ, tám trăm ba mươi chín triệu, một trăm năm mươi bảy nghìn, sáu trăm đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo luật quy định.

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, nguyên đơn có đơn kháng cáo đối với Bản án số 51/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận Q - Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận Q có Quyết định kháng nghị đối với Bản án số 51/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận Q.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn trả số nợ gốc là 4.000.000.000 đồng; cùng với tiền lãi là 1.875.329.172 đồng. Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán là 5.875.329.172 đồng Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn; đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần kháng nghị đối với số tiền 400.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ quy định Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn; chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận Q. Sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 21/3/2019, nguyên đơn kháng cáo trong hạn luật định nên hợp lệ.

Ngày 21/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận Q có quyết định kháng nghị Bản án số 51/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận Q theo thủ tục phúc thẩm. Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 372 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận Q là còn trong thời hạn kháng nghị.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận Q và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy: Giấy mượn tiền ngày 16/4/2017 có chữ ký của bà H và ông S, bà H thừa nhận có vay số tiền này, nhưng là hợp đồng vay không có lãi nên không đồng ý trả lãi cho nguyên đơn, Tòa án cấp sơ thẩm không tính lãi trên số tiền 3.600.000.000 đồng theo yêu cầu của nguyên đơn là chưa phù hợp. Bởi lẽ, trong giấy xác nhận trả khoản tiền vay ngày 19/4/2018 bà H cam kết trả nợ một phần khoản vay theo lộ trình, sau đó bà H không thực hiện theo cam kết nhưng trong giấy cam kết có nội dung “trong thời gian từ tháng 3/2018 đến ngày 30/9/2018 có khó khăn tôi xin trả vốn gốc không tính lãi của 3.600.000.000 đồng”.

Bên cạnh đó, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp sổ ghi chép quá trình trả lãi cho khoản vay 3.600.000.000 đồng có chữ ký của bà H, nhưng bà H không thừa nhận các chữ ký trong cuốn sổ này là của bà, phía nguyên đơn yêu cầu giám định chữ ký và tại Kết luận giám định ngày 14/10/2019 của Phân Viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Công an kết luận các chữ chữ ký trong sổ mà nguyên đơn yêu cầu giám định so sánh với chữ ký của bà Ngô Cẩm H cung cấp là do một người viết và ký ra. Do vậy, có cơ sở xác định việc vay nợ giữa các đương sự là hợp đồng vay có lãi nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc tính lãi trên số tiền vay 3.600.000.000 đồng.

Tuy nhiên, lãi suất các bên thỏa thuận không rõ ràng, tiền tính lãi theo sổ cũng không có căn cứ xác định là 5%/tháng, bị đơn không thừa nhận mức lãi suất 5%/tháng như lời trình bày của nguyên đơn. Do các bên có tranh chấp về lãi suất nên áp dụng Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 là 10%/năm, tính từ ngày vay đến ngày xét xử sơ thẩm, cụ thể:

Từ ngày 16/4/2017 đến ngay 28/02/2018 là 10 tháng 12 ngày: 3.600.000.000 đồng x 10%/năm x (10 tháng + 12 ngày) = 312.000.000 đồng;

Thời gian từ tháng 3/2018 đến tháng 9/2018 bị đơn xin không tính lãi vì khó khăn và được nguyên đơn đồng ý nên không tính lãi trong thời gian này;

Từ ngày 01/10/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 06/3/2019 là 5 tháng 06 ngày, tiền lãi phải trả là 156.000.000 đồng.

Tổng tiền lãi bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 312.000.000 đồng + 156.000.000 đồng = 468.000.000 đồng. Tiền lãi bị đơn đã trả cho nguyên đơn là 1.062.000.000 đồng; số tiền lãi bị đơn đã trả cho nguyên đơn, nhiều số tiền lãi phải trả theo quy định, nên số tiền còn lại 1.062.000.000 đồng - 468.000.000 đồng = 594.000.000 đồng được trừ vào nợ gốc.

Số nợ gốc bị đơn còn phải trả cho nguyên đơn là 3.600.000.000 đồng - 594.000.000 đồng = 3.006.000.000 đồng.

Giấy nhận nợ do bà H và ông S cùng ký xác nhận nên nguyên đơn yều cầu cả bà H và ông S cùng có trách nhiệm trả nợ là phù hợp.

[2.2] Đối với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán 400.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày 15/12/2017, Hội đồng xét xử nhận thấy: Nguyên đơn không có chứng cứ nào chứng minh mình đã giao số tiền này cho bị đơn; bị đơn không thừa nhận có nhận số tiền này nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rút kháng nghị nội dung này là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Bà H, ông S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên phần yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Nguyên đơn phải chịu án phí trên phần yêu cầu không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo nguyên đơn bà Trần Kim D.

Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh.

Sửa bản án sơ thẩm:

[1] Bà Ngô Cẩm H và ông Trần Hoành S có trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Kim D số tiền 3.006.000.000 đồng (Ba tỷ, không trăm lẻ sáu triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho bên được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

[2] Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Kim D về việc yêu cầu bà Ngô Cẩm H và ông Trần Hoành S trả số tiền 400.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày 15/12/2017 cùng với tiền lãi trên nợ gốc, lãi chậm trả với số tiền 1.875.329.172 đồng.

[3] Về án phí:

[3.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Ngô Cẩm H và ông Trần Hoành S phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 92.120.000đ (Chí mươi hai triệu một trăm hai mươi ngàn đồng).

Bà Trần Kim D chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 77.506.583đ (Bảy mươi bảy triệu năm trăm lẻ sáu ngàn năm trăm tám mươi ba đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 56.067.150 đ (Năm mươi sáu triệu không trăm sáu mươi bảy nghìn một trăm năm mươi đồng) theo biên lai số: AA/2018/0016423 ngày 02/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà D còn phải nộp số tiền 21.439.433đ (Hai mươi mốt triệu bốn trăm ba mươi chín ngàn bốn trăm ba mươi ba đồng).

[3.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Không ai phải chịu.

Hoàn tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm cho bà Trần Kim D số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0017149 ngày 25/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Q - Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1080/2019/DS-PT ngày 22/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:1080/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về