Bản án 107/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2020/HSST-QĐ ngày 23/9/2020 đối với bị cáo:

Trần Đức Y, sinh ngày 11 tháng 3 năm 1989, tại: K - An Giang; quê quán: K – An Giang; nơi thường trú: tổ 4, khóm X1, phường N, thành phố K, tỉnh An Giang; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo Phật; Trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: không; con ông Trần Đức E (chết) và bà Đường Thị Kim U (sinh năm 1963); anh em ruột có 02 người bị cáo là người cuối cùng.

Tiền án: Không.

Tiền sự : Ngày 26/01/2018, Tòa án nhân thành phố K, Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 15 tháng. Đến ngày 18/03/2019 đã chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15/6/2020 đến nay, có mặt.

Người chứng kiến:

- Huỳnh Văn H, sinh năm 1965; vắng mặt.

- Lê Nhâm T, sinh năm 1992; vắng mặt.

- Trần Quang T2, sinh năm 1981; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 01/5/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, lực lượng Công an thành phố K và Công an phường Vĩnh Ngươn thành phố K, đến nhà của bị cáo Trần Đức Y, thuộc tổ 4, khóm X1, phường N, thành phố K, tỉnh An Giang, kiểm tra, bắt quả tang bị cáo có hành vi cất giấu trong bóp da, để trong túi quần bên phải 03 túi nhựa trong suốt, hàn kín, chứa tinh thể rắn trắng. Nên lực lượng công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tịch thu vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 03 túi nhựa trong suốt, hàn kín, chứa tinh thể rắn màu trắng, giám định là chất ma túy (đã bàn giao Cơ quan Thi hành án dân sự).

Kết luận giám định số 96/KLGT-PC09 (MT) ngày 23/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh An Giang xác định: Mẫu M1, M2 gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3017 gam.

Ngày 08/6/2020, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố K ban hành Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trần Đức Y về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Cáo trạng số 87/CT-VKSCĐ ngày 03/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K truy tố Trần Đức Y về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra, bị cáo khai nguồn gốc ma túy bị cáo mua của người phụ nữ tên Oanh (không rõ họ, địa chỉ) vào ngày 30/4/2020, với giá 600.000 đồng, bị cáo mang về, cất giấu để sử dụng; những người chứng kiến H, T, T2 có lời khai chứng kiến sự việc lực lượng công an bắt quả tang hành vi tàng trữ ma túy và tịch thu vật chứng của bị cáo.

Tại phiên tòa, Bị cáo Trần Đức Y thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Trong phát biểu luận tội, Kiểm sát viên trình bày: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố K truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Ma túy là chất gây nghiện ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức kh e, đời sống tinh thần của con người, gây nguy hiểm đến trật tự xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, bị cáo thuộc thành phần lao động, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình.

Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đức Y từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ, còn lại sau giám định.

Đối với người tên Oanh (không rõ họ, địa chỉ), bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện kiểm sát; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.

[2] Về tư cách tham gia tố tụng: Theo biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ cùng ngày 01/6/2020 và lời khai của ông Huỳnh Văn H, ông Lê Nhâm T và ông Trần Quang T2 xác định có chứng kiến việc lực lượng công an lập biên bản bắt bị cáo phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng. ông H, ông T, ông T2 xác là người chứng kiến trong vụ án theo quy định tại Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Người chứng kiến H, T, T2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, những người này đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định vẫn tiến hành xét xử.

Về nội dung:

[3] Hành vi phạm tội:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo và những người chứng kiến trong quá trình điều tra, vật chứng vụ án được thu giữ, các tài liệu, chứng cứ khác được cơ quan điều tra thu thập và thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01/5/2020, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 01/5/2020, kết luận giám định về ma túy ngày 23/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang, nên có cơ sở xác định: Khoảng 17 giờ ngày 01/5/2020, tại nhà của bị cáo thuộc tổ 4, khóm X1, phường N, thành phố K, lực lượng Công an bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3017 gam, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi cất giấu trái phép 0,3017 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng với lỗi cố ý, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý, phòng ngừa, ngăn chặn và kiểm soát tệ nạn ma túy. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ma túy là chất gây nghiện, là mầm mống làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây tác động xấu đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo; bản thân không có nghề nghiệp, thuộc thành phần lao động, hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Vì vậy, bị cáo đủ điều kiện được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp tạo thu nhập, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong vụ số 96/KLGT- PC09 (MT) ngày 23/5/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh An Giang. Bên ngoài có in dấu tròn màu đ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K, tỉnh An Giang các chữ ký ghi tên Trần Phương Chúng, Nguyễn Đăng Khoa, có chứa lượng ma túy đã thu giữ của bị cáo và còn lại sau giám định, là vật chứng, cấm lưu hành. Xét, tịch thu, tiêu hủy.

[7] Đối với người tên Oanh (không rõ nhân thân) đã bán ma túy dùm cho bị cáo, nhưng không biết họ, tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo: Trần Đức Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất  ma túy”:

 Xử phạt: Bị cáo Trần Đức Y: 02 (hai) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày tạm giam 15/6/2020 (mười lăm, tháng sáu, năm hai nghìn không trăm hai mươi).

Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong vụ số: 96/KLGT-PC09 (MT) ngày 23/5/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh An Giang. Bên ngoài có in dấu tròn màu đ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K, tỉnh An Giang các chữ ký ghi tên Trần Phương Chúng, Nguyễn Đăng Khoa.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10 tháng 8 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố K với Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố K).

Căn cứ các Điều 135, 136 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Trần Đức Y phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Châu Đốc - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về