Bản án 107/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ngọc Dung – Kiểm sát viên.

 Ngày 21 tháng 07 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 104/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 06 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 97/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 06 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Lò Văn M, sinh năm 1984; đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản V, xã C, huyện T, tỉnh Đ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn H: 3/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Lò Văn H; họ tên mẹ: Lò Thị B; gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; họ tên vợ: Lò Thị Thu (đã ly hôn); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 29/3/2020, tạm giữ từ ngày 30/3/2020 đến ngày 08/4/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Đức T, sinh năm 1990; đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản Q, xã B, huyện M, tỉnh Đ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn H: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Phạm Văn H (đã chết); họ tên mẹ: Phạm Thị T (đã chết); gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; họ tên vợ: Giàng Thị H; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 29/3/2020, tạm giữ từ ngày 30/3/2020 đến ngày 08/4/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn M là: Ông Lê Quang Đạo – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 15 phút ngày 29/3/2020, tổ công tác C3 D2 – PK 02E cảnh sát cơ động - Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực thị trấn Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội. Khi đến khu vực trước số nhà 79, Hà Huy Tập, thị trấn Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội, kiểm tra Phạm Đức T điều khiển xe máy BKS 35B1-214.80 phía sau chở Lò Văn M có biểu hiện liên quan đến ma tuý. Quá trình kiểm tra phát hiện Phạm Đức T và Lò Văn M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã bàn giao T và M cùng vật chứng cho Công an thị trấn Yên Viên, thuộc Công an huyện Gia Lâm lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và M.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Lò Văn M: 01 gói nhỏ được bọc bằng giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng.

- Thu giữ của Phạm Đức T, gồm: 01 xe máy kiểu dáng Dream, BKS:

35B1 – 214.80 màu nâu, số máy 029279, số khung 029279, đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 2595/KLGĐ-PC09 ngày 08/04/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Lò Văn M là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,119 gam.

Tại cơ quan điều tra các bị cáo Lò Văn M và Phạm Đức T khai nhận:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 29/3/2020, M rủ T đi mua míc hát cầm tay sau đó T điều khiển xe máy kiểu dáng Dream BKS: 35B1– 214.80 chở M đi đến khu vực cầu Vĩnh Tuy, do không đủ tiền mua míc hát cầm tay nên cả hai đi về. Trên đường đi về, M rủ T đi mua ma túy cùng nhau sử dụng, T đồng ý và chở M đến khu vực Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh để mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, M đưa cho T 50.000 đồng để mua ma túy, M ngồi ở xe máy chờ, còn T cầm 50.000 đồng của M và góp 50.000 đồng của T, sau đó T đi gặp và mua 01 gói ma túy Heroine với giá 100.000 đồng của người phụ nữ (không rõ nhân thân) đang bế con nhỏ đứng ở ven đường. Sau khi mua được ma túy, T đưa cho M cầm gói ma túy rồi T điều khiển xe máy chở M đi về, đến một đoạn đường vắng thì T và M lấy một phần ma túy Heroine vừa mua được ra sử dụng chung, phần ma túy còn lại M gói và cất vào túi quần phía trước bên trái của M đang mặc, T điều khiển xe chở M đi về. Khi đến khu vực trước cửa nhà số 79 Hà Huy Tập, Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng vật chứng nêu trên.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Phạm Đức T do không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy kiểu dáng Dream, BKS 35B1 – 214.80 màu nâu, số máy 029279, số khung 029279, đã qua sử dụng thu giữ của Phạm Đức T. Qua xác M, đứng tên đăng ký xe là anh Đinh Văn Liên sinh 1979, trú tại Đồng Chưa, Gia Thịnh, Gia Viễn, Ninh Bình. Ngày 29/3/2020, khi anh Liên cho T mượn xe không biết việc T sử dụng xe chở M đi mua ma túy sử dụng nên ngày 29/5/2020, Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe máy trên cho anh Liên.

Tại bản Cáo trạng số 106/CT-VKSGL ngày 22 tháng 06 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố các bị cáo Lò Văn M và Phạm Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lò Văn M từ 14 đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/03/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo M.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51:

Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Đức T từ 12 đến 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/03/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo T.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của các bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn M có quan điểm như sau: Nhất trí về tội danh và điều luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Bị cáo M là người có trình độ học vấn thấp, là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Tại các cơ quan tiến hành tố tụng, bị cáo thành khẩn khai báo, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thái độ ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo M.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, người bào chữa, các bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 23 giờ 15 phút ngày 29/3/2020, tại khu vực trước số nhà 79, Hà Huy Tập, thị trấn Yên Viên, Gia Lâm, các bị cáo Lò Văn M và Phạm Đức T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine có khối lượng 0,119 gam với mục đích để sử dụng thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố các bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với các bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Các bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm M để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về đồng phạm: Đây là một vụ án hình sự mang tính chất đồng phạm giản đơn do hai bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm, trong đó: Lò Văn M là người khởi xướng; Phạm Đức T là người thực hành tích cực. Nên các bị cáo cùng phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình đã gây ra và cùng phải chịu một chế tài do điều luật đó quy định, song về nguyên tắc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự liên quan đến bị cáo nào thì áp dụng đối với riêng bị cáo đó.

[3.3] Về nhân thân các bị cáo:

Các bị cáo Lò Văn M và Phạm Đức T đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[3.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo M và bị cáo T thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo Lò Văn M là người có trình độ học vấn thấp, là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Như vậy, bị cáo M có có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo T có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với từng bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên toà thể hiện: Các bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của các bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo M là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Phạm Đức T do không xác định được nhân thân, tên tuổi, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn M và Phạm Đức T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lò Văn M 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/03/2020.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo M.

2.3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Đức T 14 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày 29/03/2020.

2.4. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroin có khối lượng 0,091 gam (đã trích mẫu giám định 0,028 gam), đựng trong 01 gói niêm phong có chữ ký của Giám định viên, cán bộ Công an thị trấn Yên Viên niêm phong, cán bộ tổ công tác Đại đội 3-D2 CSCĐ-CATP. Hà Nội và của Lò Văn M, Phạm Đức T, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 23/06/2020).

4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Lò Văn M.

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Phạm Đức T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về