Bản án 107/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 8 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2020/TLST- HS ngày 29 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Xuân Đ, sinh ngày 18/4/1988 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn L, xã P, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Công Đ và bà Nguyễn Thị L; vợ: Trần Thị N, sinh năm 1991; con: 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; tiền sự, tiền án: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2020 cho đến nay (có mặt).

Người làm chứng:

- Ông Đỗ Văn S, sinh năm 1964; địa chỉ: Tổ dân phố V, phường K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 08/06/2020, Lê Xuân Đ đang ở nhà thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy loại Heroin nên Đ thuê xe ôm của một người không biết tên, địa chỉ đi đến thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. Khi đi đến thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, Đ xuống xe đi bộ đến khu vực gầm cầu đường sắt thuộc phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc tìm mua ma túy. Đ gặp và hỏi mua của một người nam giới (không biết họ, tên địa chỉ) 01 gói ma túy loại Heroin với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, Đ đúc vào túi áo trước ngực, bên phải và đi bộ tìm nơi để sử dụng ma túy. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày 08/06/2020, Đ đi đến khu vực đài tưởng niệm tỉnh Vĩnh Phúc thuộc địa phận tổ dân phố V, phường K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc thì bị tổ Công tác Công an phường K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, phát hiện và lập biên bản sự việc. Tang vật thu giữ tại túi áo trước ngực bên phải của Đ 01 gói giấy nhỏ bên trong có chất bột, dạng cục màu trắng (Đ tự khai nhận đây là ma túy Heroin, Đ vừa mua để sử dụng) được niêm phong ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giám định số 1355/KLGĐ ngày 11/06/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn, có khối lượng 0,1324g loại Heroin”. Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định gồm 0,0890g mâu va toan bô bao goi được niêm phong kín trong một bao gói giấy “MẪU TRẢ”.

Về nguồn gốc số ma túy, quá trình điều tra Đ khai nhận mua 01 gói ma túy loại Heroin của một người nam giới khoảng hơn 30 tuổi, cao khoảng 1,65m, da đen, dáng người gầy (Đ không biết họ, tên địa chỉ) tại gầm cầu đường sắt thuộc địa phận phường Đ, thành phố V. Cơ quan điều tra đã xác minh tại công an phường Đ, thành phố V về người nam giới có đặc điểm như Đ khai, nhưng không xác định được người nam giới bán ma túy cho Đ là ai.

Tại Cáo trạng số: 108/CT-VKSND VY ngày 27/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Lê Xuân Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Cơ quan điều tra và phiên tòa, bị cáo Lê Xuân Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người làm chứng tại phiên tòa vắng mặt nhưng quá trình điều tra khai nhận như nội dung Bản cáo trạng đã nêu trên (bút lục 65 - 70 ).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lê Xuân Đ từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 08/6/2020). Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ 0,0890g mâu va toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định;

Bị cáo Đ không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Xuân Đ tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội, cùng các tang vât đa thu giư , các tài liệu, chứng cứ được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 08/06/2020, tại khu vực đài tưởng niệm tỉnh Vĩnh Phúc thuộc địa phận tổ dân phố V, phường K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, Lê Xuân Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy (Heroin) mục đích để sử dụng cho nhu cầu nghiện hút của bản thân thì bị tổ công tác Công an phường K, thành phố V kiểm tra hành chính, phát hiện. Tang vật thu giữ của Đ 01 gói giấy chất bột màu trắng, qua giám định là ma túy, loại Heroin, khối lượng Heroin trong mẫu vật giám định là 0,1324g (không phảy một ba hai bốn gam).

Hành vi của Lê Xuân Đ đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Nội dung điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe của con người, làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm,các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 5 năm nên theo quy Đtại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào và được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần cho bị cáo. Căn cứ hành vi phạm tội của bị cáo cân chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Đối với người có liên quan trong vụ án: Người bán ma túy cho Đ, quá trình điều tra Đ khai mua 01 gói ma túy loại Heroin của một người nam giới khoảng hơn 30 tuổi, cao khoảng 1,65m, da đen, dáng người gầy, Đ không biết họ, tên địa chỉ của người này. Cơ quan điều tra đã xác minh tại công an phường Đ, thành phố V về người nam giới có đặc điểm như Đ khai nhưng không xác định được người nam giới đó là ai. Ngoài lời khai của Đ không có tài liệu gì xác định nhân thân, lai lịch người bán ma túy cho Đ. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,0890g mẫu và toàn bộ bao gói được hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 ( sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Xuân Đ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 08/6/2020).

Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,0890g mâu và toàn bộ bao gói được hoàn lại sau giám Đ (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 8 năm 2020.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Luật án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Xuân Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về