Bản án 107/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 99/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

LTD, sinh năm 1974 tại An Giang; thường trú: Ấp PM, xã PH, huyện AP, tỉnh AG; tạm trú: 1/68 khu phố HL2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD; Nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa: mù chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông LVH, sinh năm 1949 (đã chết) và bà DTĐ, (đã chết); tiền án: Bản án số 87/2011/HSPT ngày 27/10/2011 bị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/12/2011; Bản án số 18/2012/HSST ngày 13/6/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xử phạt 01 (một) năm tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/3/2013; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 08/12/2010 bị Công an thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xử phạt hành chính 150.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, sau đó LTD tiếp tục 03 lần trộm cắp vặt bị Công an thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang buộc làm cam kết để giáo dục, bị bắt tạm giam ngày 18/12/2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông TVT, sinh năm 1976; thường trú: 1/600 khu phố HL2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người làm chứng: Ông TDQ, sinh năm 1983, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 18/12/2019, LTD đi bộ lòng vòng trên đường thuộc khu phố HL2, phường TG để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi ngang qua cửa hàng vật liệu xây dựng Thưởng Minh tọa lạc tại 1/73 khu phố HL2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD do ông TVT làm chủ, D nhìn thấy trong cửa hàng không có người trông coi. D đi vào trong cửa hàng và đi đến vị trí bàn làm việc rồi kéo ngăn kéo bàn phía dưới cùng ra thì thấy một chìa khóa để sẵn trong ngăn kéo, D lấy chìa khóa này ra mở ngăn kéo còn lại phía trên của cái bàn này ra và lấy trộm số tiền 4.505.000 đồng (theo bị hại T khai báo là 5.000.000 đồng ch n) rồi nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Sau khi lấy trộm được số tiền trên, D đi đến tiệm vàng Kim Mai mua 0.5 chỉ vàng 24K với số tiền 2.090.000 đồng (Hai triệu không trăm chín mươi nghìn đồng), mua điện thoại di động hết 220.000 đồng (hai trăm hai mươi ngàn đồng) và tiêu xài hết 395.000 (ba trăm chín mươi lăm nghìn đồng). Khoảng 08 giờ cùng ngày ông T thấy cửa ngăn kéo bàn mở nên kiểm tra thì phát hiện số tiền để trước đó đã bị mất. úc này ông T xem lại Camera thì biết D đã đột nhập lấy trộm số tiền trên đi mất. Ông T cùng người bạn là TDQ đi tìm D thì phát hiện D đang đi bộ trên đường trong khu phố HL2, phường TG nên giữ lại báo Công an phường Thuận Giao đến làm việc.

Vật chứng thu giữ tiền mặt 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng); 01 nhẫn vàng 24k trọng lượng 0,5 chỉ, 01 điện thoại di động bên trong có thẻ nhớ. Cơ quan Cảnh sát điều tra xác định các tài sản này do bị can Dân thực hiện hành vi trộm cắp tài sản mà có. Qua làm việc với bị hại T, bị hại đồng ý nhận lại số tài sản là tiền mặt 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng); 01 nhẫn vàng 24k trọng lượng 0,5 chỉ, 01 điện thoại di động bên trong có thẻ nhớ và không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Do vậy Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản đã từnghu hồi được cho ông T.

Tại Cáo trạng số 116/CT-VKS-TA ngày 13 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo LTD về “Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát v n giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố, phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo LTD mức hình phạt t 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù.

Tại phiên tòa bị cáo LTD đã khai nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến của bị hại: Đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm và đề nghị xét xử bị cáo đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã từnghực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã từnghực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo LTD đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố. ời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Khoảng 07 giờ ngày 18/12/2019 tại cửa hàng vật liệu xây dựng Thưởng Minh tọa lạc tại 1/73 khu phố HL2, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD LTD có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 4.505.000 đồng, bị cáo có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội mới, do đó Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo LTD về “Tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm theo điểm g Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. .

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả và pháp luật. Do đó cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt hành chính và làm bản cam kết về hành vi trộm cắp vặt.

[7] Đối chiếu với mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với số tiền bị cáo chiếm đoạt được bị hại ông TVT đã nhận lại và không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo LTD phạm tội “trộm cắp tài sản .

Xử phạt bị cáo LTD 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/12/2019

2. Về án phí: Bị cáo LTD phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về