Bản án 107/2020/HS-ST ngày 10/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 10/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc M, sinh năm: 1997, tại tỉnh Đồng Tháp. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Trình độ học vấn: 09/12. Nghề nghiệp: Phụ hồ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không: quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh H và bà Lê Thị Bạch L; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/10/2019 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng hơn 17 giờ, ngày 24/10/2019, Nguyễn Ngọc M đang ở phòng trọ tại xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương thì nảy sinh ý định đi mua ma túy về để sử dụng. Sau đó, M điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Max, màu đỏ, biển số 54Z3-58XX chạy xuống khu vực chợ Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua ma túy. Khi đi đến khu vực chợ Thủ Đức thì M tiếp tục điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Max, màu đỏ, biển số 54Z3-58XX đi vào hẻm số 28 thì M gặp một người phụ nữ khoảng 60 tuổi (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) và M hỏi là có bán ma túy đá hay không thì người phụ nữ này trả lời là có và hỏi M mua bao nhiêu, M trả lời là bán cho M 400.000 (Bốn trăm ngàn) đồng và đưa số tiền trên cho người phụ nữ. Sau khi nhận tiền của M thì người phụ nữ đưa lại cho M 02 (Hai) túi ny lon màu trắng, hàn kín miệng, kích thước 01 x 2,5 cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Mua được ma túy M cất giấu 02 (Hai) túi ny lon màu trắng, hàn kín miệng, kích thước 01 x 2,5 cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng vào trong túi quần phía trước bên phải của M rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Max, màu đỏ, biển số 54Z3-58XX về lại Bình Dương. Đến khoảng 22 giờ 10 phút cùng ngày 24/10/2019, khi M điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Max, màu đỏ, biển số 54Z3-58XX chạy đến đường Lê Lợi, đoạn thuộc khu 3, phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an phường Hòa Phú trên đường tuần tra thấy nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để tiến hành kiểm tra thì phát hiện M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong túi quần phía trước bên phải nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, gồm: là 02 (Hai) túi ny lon màu trắng, hàn kín miệng, kích thước 01 x 2,5 cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (Đã được niêm phong theo quy định của pháp luật) và 01 (Một) xe mô tô hiệu Yamaha Max, màu đỏ, biển số 54Z3-58XX. Đến khoảng 01 giờ 15 phút ngày 25/10/2019, Công an phường Hòa Phú chuyển hồ sơ vụ việc, đối tượng và vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một để điều tra, xác minh và xử lý theo thẩm quyền.

Ngày 25/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định trưng cầu giám định số 34/QĐ-CQ.CSĐT, trưng cầu giám định chất tinh thể màu trắng được đựng trong 02 (Hai) túi ny lon màu trắng, hàn kín miệng, kích thước 01 x 2,5 cm đã thu giữ của Nguyễn Ngọc M, khối lượng khi mở niêm phong là 0,3964 gam.

Ngày 29/10/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Dương có Bản kết luận giám định số 792/MT-PC09, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3964 gam, loại Methamphetamine. Trọng lượng sau giám định là 0,3665 gam, loại Methamphetamine. Quá trình điều tra xác định đây là vật chứng của vụ án nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy.

Đối với người phụ nữ khoảng 60 tuổi đã bán ma túy cho Nguyễn Ngọc M tại khu vực chợ Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, quá trình điều tra M khai không biết rõ họ tên và địa chỉ cư trú của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một không có căn cứ để làm rõ và xử lý.

Đối với 01 (Một) xe mô tô hiệu Yamaha Max, màu đỏ, biển số 54Z3- 58XX, số khung: VH91-013500, số máy FMG-1013500, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên do chị Nguyễn Thị Ngọc D, cư trú tại số 79/5B, đường T, phường 1, quận X, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu, tuy nhiên hiện nay chị D không còn cư trú tại địa chỉ trên và Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Thủ Dầu Một đã đăng báo để truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay không có ai đến liên hệ để giải quyết. Đối với chiếc xe trên, Nguyễn Ngọc M khai mua của một người không xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú vào khoảng tháng 9/2019 nhưng không làm giấy tờ mua bán và không có Giấy chứng nhận đăng ký xe nên M chưa làm thủ tục sang tên chủ sở hữu. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.

Cáo trạng số 36/CT-VKS-HS ngày 21/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần luận tội giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 02 (Hai) gói nylon chứa ma túy trọng lượng sau giám định là 0,3665 gam là tang vật của vụ án.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) xe mô tô hiệu Yamaha Max, màu đỏ, biển số 54Z3-58XX, số khung: VH91-013500, số máy FMG- 1013500 là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với Viện Kiểm sát về tội danh, khung hình phạt và mức hình phạt đã đề nghị. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 10 phút ngày 24/10/2019, trên đường Lê Lợi, đoạn thuộc khu 3, phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Ngọc M bị lực lượng Công an phường Hòa Phú trên đường tuần tra thấy nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để tiến hành kiểm tra thì phát hiện Nguyễn Ngọc M cất giấu ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,3964 gam chứa trong 02 (hai) túi ny lon màu trắng, hàn kín miệng, kích thước 01 x 2,5 cm trong túi quần phía trước bên phải của M để nhằm mục đích sử dụng. Do vậy hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm hình sự khác. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ phạm tội cũng như tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về biện pháp tư pháp:

Đối với 01 (một) bì thư niêm phong (M1) và 01 (một) túi niêm phong (M2) có chữ ký của người bị bắt Nguyễn Ngọc M, cán bộ niêm phong Trương Hoàng Vũ Linh và hình dấu đỏ Công an phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một, bên trong có 02 gói nylon chứa ma túy trọng lượng sau giám định 0,3665 gam theo kết luận giám định số 792/MT-PC09 ngày 29/10/2019 là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng hiệu Yamaha Max màu đỏ, biển số 54Z3-58XX, số khung: VH91-013500, số máy FMG-1013500 là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 106, 136, 260, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 2/ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc M 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/10/2019.

3/ Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong (M1) và 01 (một) túi niêm phong (M2) có chữ ký của người bị bắt Nguyễn Ngọc M, cán bộ niêm phong Trương Hoàng Vũ Linh và hình dấu đỏ Công an phường Hòa Phú, thành phố Thủ Dầu Một, bên trong có 02 gói nylon chứa ma túy trọng lượng sau giám định 0,3665 gam theo kết luận giám định số 792/MT-PC09 ngày 29/10/2019.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng hiệu Yamaha Max màu đỏ, biển số 54Z3-58XX, số khung: VH91-013500, số máy FMG-1013500.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 071.20 ngày 17/01/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4/ Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-ST ngày 10/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về