Bản án 107/2020/HS-ST ngày 05/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 05/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị T, sinh năm 1976. Tại Thừa Thiên Huế. HKTT: Tổ 14, Khu vực V, phường A, Thành phố H, tỉnh T. Chổ ở hiện nay: D220/5, khu phố 4, phường L, thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 6/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Phật. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Đức T (đã chết) và bà Đào Thị T, sinh năm 1948. Gia đình bị cáo có 06 chị em, bị cáo là con thứ 6. Bị cáo có chồng tên Nguyễn Đăng Q, sinh năm 1968 và có 02 con, lớn sinh năm 2002 và nhỏ sinh năm 2016. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 01/11/2019 đến ngày 08/11/2019 được hủy bỏ quyết định tạm giữ và áp dụng biên pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại.

Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Anh Đỗ Tiến Đ, sinh năm 1992.

Địa chỉ: 01 Phạm Văn Thuận, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 28/10/2019, Nguyễn Thị T dắt theo con gái Nguyễn Thị Mỹ H (sinh ngày 28/01/2016) đến cửa hàng thế giới di động tại địa chỉ nhà số 01, đường P, khu phố 1, phường T, thành phố B để xem điện thoại. Khi cháu H có lấy 01 máy Laptop (máy tính xách tay) của anh Đỗ Tiến Đ để ở bàn trưng bày đưa cho T xem thì T đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc máy Laptop trên nên đã lấy máy Laptop bỏ vào giỏ xách và lén lút mang về phòng trọ cất giấu. Đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 01/11/2019 khi T đến cửa hàng thế giới di động số 72 đường Đ, khu phố 4, phường T, thành phố B thì bị anh Đỗ Tiến Đ phát hiện trình báo Công an Phường T lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý theo quy định. Tại Cơ quan điều tra, T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 USB bên trong có nội dung sự việc (lưu kèm hồ sơ);

- 01 máy Laptop nhãn hiệu Xiaomi, số ID: 00326-10000-00000-AA977, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh Đỗ Tiến Đ là chủ sơ hữu.

Kết luận định giá tài sản số 508/TCKH-HĐĐG ngày 07/11/2019 của hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: 01 máy Laptop nhãn hiệu Xiaomi, số ID: 00326-10000-00000-AA977 có giá trị định giá tài sản là 11.691.000 đồng (mười một triệu sáu trăm chín mươi mốt nghìn đồng).

Về dân sự: anh Đỗ Tiến Đ đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại cáo trạng số: 45/CT/VKS-HS ngày 10 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố Nguyễn Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo với mức án từ 06 (sáu) đến 08 (tám) tháng tù.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong phần bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án, tội danh và áp dụng điều luật:

Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 28/10/2019, tại nhà số 01, đường P, khu phố 1, phường T, thành phố B, Nguyễn Thị T đã có hành vi trộm cắp của anh Đỗ Tiến Đ 01 máy Laptop (máy tính xách tay) có giá trị tài sản là 11.691.000 đồng (mười một triệu sáu trăm chín mươi mốt nghìn đồng) thì bị phát hiện xử lý theo quy định.

Lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa là thống nhất, phù hợp nhau và phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự, gây bất bình cho quần chúng nhân dân tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành nên có đủ nhận thức để nhận biết hành vi của minh là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi phạm tội chứng tỏ bò caùo là người coi thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trong; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi và trả cho người bị hại. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về bồi thường dân sự: Anh Đỗ Tiến Đ đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 USB bên trong có nội dung sự việc (lưu kèm hồ sơ);

- 01 máy Laptop nhãn hiệu Xiaomi, số ID: 00326-10000-00000-AA977, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh Đỗ Tiến Đ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa, xét thấy phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Thị T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giam trước đó từ ngày 01/11/2019 đến ngày 08/11/2019.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-ST ngày 05/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về