Bản án 107/2020/HS-PT ngày 27/02/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 107/2020/HS-PT NGÀY 27/02/2020 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 619/2019/TLPT-HS, ngày 27/12/2019 đối với các bị cáo Nguyễn Thị Thu H, Ngô Nhật H2 và Vũ Quang T do có kháng cáo của các bị cáo H, H2 và T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 122/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Thị Thu H (Tên gọi khác: không); giới tính: nữ; sinh năm: 1980, tại Thành phố Hà Nội; đăng ký thường trú: Số 7 Ngõ 41 đường KĐ, phường TĐ, quận TX, Thành phố Hà Nội; chỗ ở: Số 1 QT, Phường Q, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Nội trợ; Con ông Nguyễn Đình H và bà Trịnh Thị T; Bị cáo có chồng là Nguyễn Văn Q (đã ly hôn) và có 01 người con sinh năm 2004; Tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/10/2018, đến ngày 10/01/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa)

 2. Ngô Nhật H2 (Tên gọi khác: không); giới tính: nam; sinh năm: 1991, tại tỉnh Hà Tĩnh; đăng ký thường trú: Xóm TL, xã ST, huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở: 226/12/41 NVL, Phường W, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Buôn bán; Con ông Ngô Thái L (đã chết) và bà Lê Thị S; Bị cáo có vợ là Đặng Thị H và có 02 người con (lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2017); Tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/10/2018, đến ngày 10/01/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa) 3. Vũ Quang T (tên gọi khác: “Tuấn Anh”); giới tính: nam; sinh năm: 1990, tại tỉnh Thái Nguyên; đăng ký thường trú: Xóm DC, xã QS, huyện DH, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở: 40/17 LDT, Phường W, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: không; Con ông Vũ Văn K và bà Dương Thị S; Bị cáo có vợ là H2 Thị H (đã ly hôn) và có 01 người con sinh năm 2010; Tiền sự: không.

Tiền án: Ngày 18/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện DH, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 26/8/2015, bị Tòa án nhân dân huyện DH, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Nhân thân: Ngày 25/11/2008, bị Tòa án nhân dân huyện DH, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 13/10/2018. (Có mặt tại phiên tòa) - Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thu H: Các luật sư Phạm Đức Thảo, Tạ Văn Tú và Nguyễn Văn Trọng, thuộc Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn An Quốc, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội. (Đều có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại không có kháng cáo, không bị kháng nghị: Bà Hứa Thiên K, sinh năm 1978; đăng ký thường trú: 32 Lê Đại Hành, phường Phước Tiến, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trung P và Hứa Thiên K gặp nhau tại Bắc Giang và có quan hệ tình cảm với nhau từ năm 2014. Sau đó, cả hai chia tay nên K về Nha Trang sinh sống. Vào ngày 10/10/2018, K vào Thành phố Hồ Chí Minh đi công việc thì P gọi điện thoại liên lạc với K, cả hai hẹn gặp nhau tại quán cà phê tên Tèo (số 36/83 LTH, Phường W, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh). Với mục đích đe dọa chiếm đoạt tiền của K nên P rủ thêm Nguyễn Thị Thu H, H kêu thêm Ngô Nhật H2, H2 rủ thêm Vũ Quang T và tên Kh (không rõ lai lịch và là nhân viên của H2). Cả nhóm thống nhất sẽ đe dọa đòi tiền K theo chỉ đạo của P và H với số tiền 420.000.000đ (bốn trăm hai mươi triệu đồng), thực tế K không có nợ tiền P. Nếu đòi được H và P sẽ chia tiền cho H2 và T số tiền 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng). Cả nhóm thỏa thuận tại quán cà phê, P sẽ là người gây sức ép đòi nợ K, T là người ghi âm lại việc K sẽ xác nhận nợ số tiền 420.000.000đ (bốn trăm hai mươi triệu đồng) theo chỉ đạo của P. H, H2 và Kh ngồi bên cạnh sẵn sang tiếp ứng và sẽ qua bàn của K gây sức ép. Khoảng 19 giờ ngày 10/10/2018, P đi cùng với H, T, H2 và Kh đến quán cà phê Tèo đã hẹn trước với K. Lúc này, P ngồi chung bàn với T; H, H2 và Kh ngồi bàn kế bên sẵn sàng chờ tiếp ứng cho P và T.

Khoảng 20 giờ cùng ngày, P nói T chạy xe máy đi đón K về quán đã hẹn. Khi K đến quán thì P gây sức ép buộc K phải ký giấy nợ số tiền 420.000.000đ (bốn trăm hai mươi triệu đồng) còn T cầm điện thoại ghi âm. K không đồng ý vì cho rằng mình không nợ P nên P dùng lời lẽ hăm dọa rằng “Mày bị tao lừa vào đây nếu không ký nhận nợ thì đừng hòng mang xác ra khỏi đây” để gây sức ép đối với K. P dùng chân đạp vào mặt K nhiều cái. H, H2 và Kh ngồi bàn kế bên cũng qua bàn K gây sức ép. H dùng tay tát vào mặt K nhiều cái, mục đích để ép K ký giấy nợ 420.000.000đ (bốn trăm hai mươi triệu đồng). Do sợ bị đánh nên K đồng ý ký vào giấy xác nhận nhưng chỉ đồng ý trả cho nhóm của P số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) và yêu cầu ghi rõ P sẽ không làm pH K nữa. Lúc này, H yêu cầu K phải đưa Giấy chứng minh nhân dân để làm tin, K nói giấy tờ đang để ở khách sạn trên đường BTX, Quận 1 thì H chỉ đạo T và Kh đi theo K về Quận 1 để lấy giấy tờ. T và Kh đón xe Taxi cùng K về khách sạn trên đường BTX, Quận 1 để lấy giấy tờ. Đến nơi, K đi lên phòng lấy Giấy chứng minh nhân dân của K giao lại cho Kh và T. Sau đó, T và Kh cầm Giấy chứng minh nhân dân của K đi về. Ngày 11/10/2018, Kh và T mang Giấy chứng minh nhân dân của K đưa lại cho H. Ngày 13/10/2018, K hẹn nhóm của P đến quán cà phê Rita, số 211 NVC, Phường Q, Quận 5 để giao 100.000.000đ (một trăm triệu đồng). H, P thông báo cho H2 và T biết và hứa sẽ cho T và H2 số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) rồi cả nhóm hẹn nhau đến quán cà phê Rita để gặp K lấy tiền. Riêng Kh không đi theo nhóm của P và H. Khi cả nhóm vào quán cà phê Rita thì K đưa 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) cho T và H2 đếm lại, sau đó T và H2 giao lại tiền cho H cất giữ. H và P ký xác nhận đã nhận số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) và P và H không làm pH K nữa thì lúc này Công an ập vào bắt quả tang P, H, T và H2.

Tại cơ quan điều tra P, H, T và H2 đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại phiên tòa sơ thẩm, tất cả các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã xác định.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 122/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Căn cứ điểm a, d khoản 2 Điều 170; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm h, s, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung P 04 (bốn) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/10/2018.

- Căn cứ điểm a, d khoản 2 Điều 170; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam trước đây từ ngày 13/10/2018 đến ngày 10/01/2019.

- Căn cứ điểm a, d khoản 2 Điều 170; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Ngô Nhật H2 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam trước đây từ ngày 13/10/2018 đến ngày 10/01/2019.

- Căn cứ điểm a, d, e khoản 2 Điều 170; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 2 Điều 53; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Vũ Quang T 04 (bốn) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/10/2018 Ngày 19/11/2019, bị cáo Nguyễn Thị Thu H có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày 21/11/2019, bị cáo Ngô Nhật H2 có đơn kháng cáo xin được giảm mức án. Ngày 26/11/2019, bị cáo Vũ Quang T có đơn kháng cáo cho rằng mức án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá cao.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, các bị cáo đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất cũng như mức độ của hậu quả đã xảy ra. Đối với đề nghị của luật sư cho bị cáo H được hưởng án treo là chưa tương xứng với hình phạt của các bị cáo khác trong vụ án vì giữ các bị cáo có sự thống nhất và phân công phối hợp, trong đó, bị cáo Nguyễn Trung P có vai trò chính trong vụ án, là người chủ mưu, rủ rê bị cáo Nguyễn Thị Thu H giúp sức bằng cách gọi thêm Ngô Nhật H2 tham gia uy hiếp tinh thần của bị hại. Nguyễn Thị Thu H là người hứa hẹn chia tiền cho bị cáo H2 và T và chính bản thân bị cáo H đã thực hiện hành vi dùng tay tát vào mặt của bị hại để uy hiếp tinh thần Do các bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết, chứng cứ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Bị cáo Nguyễn Thị Thu H không có ý kiến tranh luận.

- Luật sư Tạ Văn Tú bào chữa cho bị cáo H phát biểu: Luật sư thống nhất với tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, luật sư đề nghị xem xét lại các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là: Bị cáo không phải là chủ mưu trong vụ án mà chỉ có vai trò thứ yếu là đi theo P vì tò mò và hỗ trợ cho P đòi tiền nợ, bản thân bị cáo cũng không được hưởng lợi trong vụ án. Ngoài ra xét hoàn cảnh gia đình của bị cáo thì cha bị cáo đang bị bại não, mẹ già yếu, bị cáo đang là người chăm sóc chính và đang nuôi con nhỏ, chồng đã ly hôn. Do đó, đề nghị áp dụng các điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 và khoản 1 Điều 65 để giảm nhẹ hình phạt cho và bị cáo được hưởng án treo.

Các bị cáo Ngô Nhật H2 và Vũ Quang T không tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 18/11/2019, Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí minh xét xử sơ thẩm, đến các ngày 19; 21 và 26/11/2019 bị cáo Nguyễn Thị Thu H, Ngô Nhật H2 và Vũ Quang T có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của các bị cáo đều được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó có đủ cơ sở để kết luận: ngày 10/10/2018 các bị cáo Nguyễn Trung P, Nguyễn Thị Thu H, Ngô Nhật H2 và Vũ Quang T cùng với một đối tượng tên Kh (chưa rõ lai lịch) đã có hành vi dùng vũ lực và đe dọa nhằm uy hiếp tình thần của bà Hứa Thiên K buộc bà K phải ký giấy nợ với số tiền 420.000.000 (bốn trăm hai mươi triệu) đồng nhưng bà K chỉ đồng ý ký giấy nợ 100.000.000 (một trăm triệu) đồng và các bị cáo yêu cầu bà K đưa giấy chứng minh nhân dân của bà K để các bị cáo giữ làm tin, đến ngày 13/10/2019 các bị cáo uy hiếp buộc bà K phải đưa số tiền 100.000.000 đồng theo giấy ký xác nhận nợ cho các bị cáo, viêc giao nhận tiền đã hoàn thành.

Bị cáo Vũ Quang T có 02 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Như vậy, Tòa án nhân dân Quận 5 đã xét xử các bị cáo Nguyễn Thị Thu H và Ngô Nhật H2 về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, theo quy định tại các điểm a, d khoản 2 Điều 170 Bộ luật hình sự và xét xử bị cáo Vũ Quang T theo quy định tại các điểm a, d, e khoản 2 Điều 170 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét đơn kháng cáo của các bị cáo:

Trong đơn kháng cáo và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, cụ thể: Bị cáo H kháng cáo xin được hưởng án treo, bị cáo H2 và bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Xét hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo, khi lượng hình thì Tòa án cấp cơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ là: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại xem như chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; Bị hại đã có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; Các bị cáo P, H và H2 mới phạm tội lần đầu, bị cáo P trong quá trình tham gia quân đội đã có thành tích xuất sắc và được Chủ tịch nước tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhì và hạng ba; bị cáo H có cha là người có công với cách mạng. Từ đó, cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo P có thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ để xem xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ các bị cáo phải chịu.

Xét đây là vụ án đồng phạm có tổ chức, các bị cáo có sự thống nhất và phân công phối hợp, trong đó, bị cáo Nguyễn Trung P có vai trò chính trong vụ án, là người chủ mưu, rủ rê bị cáo Nguyễn Thị Thu H giúp sức bằng cách gọi thêm Ngô Nhật H2 tham gia uy hiếp tinh thần của bị hại. Nguyễn Thị Thu H là người hứa hẹn chia tiền cho bị cáo H2 và T và chính bản thân bị cáo H đã thực hiện hành vi dùng tay tát vào mặt của bị hại để uy hiếp tinh thần. Bị cáo Ngô Nhật H2 có vai trò giúp sức kêu gọi thêm Vũ Quang T để tham gia đông người uy hiếp tinh thần bị hại. Bị cáo Vũ Quang T là đồng phạm tích cực tham gia ghi âm cuộc nói chuyện giữa bị cáo P và bị hại để ghi lại việc bị hại thừa nhận mượn tiền của P, đồng thời tham gia áp giải bị hại về khách sạn lấy giấy chứng minh nhân dân để làm tin.

Các bị cáo đều là người trưởng thành, có sức khỏe, có đủ khả năng nhận biết được hành vi của mình, biết rõ hành vi uy hiếp, cưỡng đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Thu H cung cấp thêm tình tiết bị cáo đang nuôi con nhỏ, chồng bị cáo đã ly hôn. Tuy nhiên tình tiết này đã được ghi nhận trong lý lịch và đã được cấp sơ thẩm xem xét khi lượng hình. Các bị cáo H2 và T không cung cấp thêm tình tiết nào mới.

Do đó, mức hình phạt tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với các bị cáo là tương xứng và phù hợp với mức độ cũng như hậu quả của hành vi phạm tội, cũng như tương xứng về phân hóa vai trò đồng phạm trong vụ án. Xét không có cơ sở để chấp nhận đơn kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo H và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo T, H2.

[4] Những lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa về việc không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị Thu H, Ngô Nhật H2, Vũ Quang T và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 122/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Xử phạt:

- Căn cứ điểm a, d khoản 2 Điều 170; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam trước đây từ ngày 13/10/2018 đến ngày 10/01/2019.

- Căn cứ điểm a, d khoản 2 Điều 170; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Ngô Nhật H2 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam trước đây từ ngày 13/10/2018 đến ngày 10/01/2019.

- Căn cứ điểm a, d, e khoản 2 Điều 170; Điều 17; Điều 38; Điều 50; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Khoản 2 Điều 53; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Vũ Quang T 04 (bốn) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/10/2018.

4. Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và áp dụng Điều 22 và 23 Nghị quyết 326 quyết định về mức thu, miễn giám, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án;

Các bị cáo Nguyễn Thị Thu H, Ngô Nhật H2 và Vũ Quang T mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-PT ngày 27/02/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:107/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về