Bản án 107/2020/DS-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 107/2020/DS-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 192/2020/TLST- DS ngày 27 tháng 4 năm 2020 về việc tranh chấp: “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 279/2020/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 271/2019/QĐST – DS ngày 15/7/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Thanh P, sinh năm 1977; địa chỉ: Khóm T Đ B, thị trấn T B, huyện T B, tỉnh Đồng Tháp.

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Lê Thị Thùy T, sinh năm 1983; địa chỉ: số nhà 07, ấp 3, xã Phú Lợi, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp. Văn bản ủy quyền ngày 10/3/2020 (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thành P, sinh năm 1962: địa chỉ: số nhà 114, ấp Đ, xã M H, huyện C M, tỉnh An Giang (vắng mặt).

Bà Nguyễn Thị Thu E, sinh năm 1968; địa chỉ: ấp 4, xã P M, huyện C L, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai, biên bản không hòa giải được và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Lê Thị Thùy T trình bày: Vào ngày 16.8.2017, ông P, bà Thu có vay tiền của ông P số tiền 10.500.000 đồng có làm biên nhận, hai bên thỏa thuận lãi suất 1, 66%/tháng, không hẹn thời gian trả, mục đích vay để lo chi phí sinh hoạt gia đình, đến tháng 3 năm 2020 ông P, bà Thu E đóng lãi được 5.394.000 đồng và trả số tiền gốc được 1.046.000 đồng, từ tháng 4 năm 2020 ông P, bà Thu E không đóng lãi và cũng không trả vốn. ông P có đến gặp ông P, bà Thu E để thương lượng cách nợ, nhưng ông P, bà Thu E vẫn cố tình tránh né. Nay ông P yêu cầu ông P, bà Thu Erm có nghĩa vụ trả cho ông P số tiền 9.454.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến giải quyết vụ án:

Ngày 16/8/2017, ông Nguyễn Thành P và bà Nguyễn Thị Thu E có vay tiền của ông Trần Thanh P số tiền 10.500.000 đồng, có làm biên nhận, lãi suất 1,66%/tháng, không thỏa thuận thời gian trả, mục đích vay để lo chi phí sinh hoạt gia đình. Đến tháng 3/2020, ông P, bà E đã đóng lãi được 5.394.000 đồng và trả vốn vay được 1.046.000 đồng rồi đến nay không trả vốn và lãi. Nay, yêu cầu ông P, bà E có nghĩa vụ trả số tiền vốn vay còn nợ 9.454.000 đồng, rút lại yêu cầu tính lãi suất.

Phía ông Nguyễn Thành P và bà Nguyễn Thị Thu E đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do và không ghi nhận được ý kiến.

Xét thấy, căn cứ ông Trần Thanh P khởi kiện là biên nhận ngày 16/8/2017, thể hiện nội dung “ông Nguyễn Thành P và bà Nguyễn Thị Thu E có nhận tiền vay của ông Trần Thanh P với số tiền 10.500.000 đồng”, có chữ ký của ông P và chữ viết của bà E. Ông P cho rằng ông P, bà E đã đã đóng lãi được 5.394.000 đồng và trả vốn vay được 1.046.000 đồng, còn nợ lại số tiền vốn vay là 9.454.000 đồng, nên việc ông P yêu cầu ông P, bà E trả 9.454.000 đồng là có căn cứ phù hợp Điều 463, 466 Bộ luật dân sự.

Về lãi suất, ông P rút lại yêu cầu tính lãi suất, nên cần đình chỉ đối với phần này theo quy định tại Điều 217, 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 463, 466 Bộ luật dân sự, các Điều 217, 244 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thanh P.

- Ông Nguyễn Thành P và bà Nguyễn Thị Thu E có nghĩa vụ trả ông Trần Thanh P số tiền 9.454.000 đồng.

- Đình chỉ đối với phần rút yêu cầu tính lãi xuất của ông Trần Thanh P.

Tòa án đã tiến hành thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ ông P, bà Thu E đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng ông bà không đến và cũng không gửi ý kiến cho Tòa án xE xét. Do đó Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên tòa, và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn ông Nguyễn Thành P, bà Nguyễn Thị Thu E có nơi cư trú tại ấp Đ, xã M H, huyện C M, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại điều 26, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Thành P, bà Nguyễn Thị Thu E được tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 228 Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông P, bà Thu E.

[2] Qua lời trình bày của chị T đại diện ủy quyền cho nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ cung cấp, qua quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xác định giữa ông P với ông P, bà Thu E có thỏa thuận với nhau việc vay tiền. Vào ngày 16.8.2017 ông P, bà Thu E có vay tiền của ông P số tiền 10.500.000 đồng, hai bên thỏa thuận lãi suất 1.66%/tháng, không hẹn thời gian trả, sau đó ông P, bà Thu E có đóng lãi được 5.394.000 đồng và trả vốn gốc được 1.046.000 đồng. Từ tháng 4/2020 đến nay không đóng lãi tiếp tục và cũng không trả vốn. Xét thấy việc vay mượn giữa các bên được xác lập trên cơ sở tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, và phù hợp với Điều 463 Bộ luật dân sự, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Ông P, bà Thu E không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ khi ông P có yêu cầu thu hồi vốn làm thiệt thòi quyền lợi của ông P. Trong quá trình hòa giải cũng như tại phiên tòa ông P, bà Thu E vắng mặt và cũng không gửi ý kiến trình bày để Hội đồng xét xử xE xét, chị T đại diện ủy quyền cho ông P xuất trình chứng cứ là biên nhận nợ giữa ông P với ông P, bà Thu E, do vậy ông P yêu cầu ông P, bà Thu E có nghĩa vụ trả cho ông P số tiền vốn vay 9.454.000 đồng (chín triệu bốn trăm năm mươi bốn ngàn đồng) là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét thấy giữa ông P, bà Thu E đã phát sinh khoản nợ trong thời kỳ hôn nên ông P yêu cầu ông P, bà Thu E có nghĩa vụ trả số nợ cho ông P là phù hợp với Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, buộc ông P, bà Thu E có nghĩa vụ trả cho ông P số tiền vay 9.454.000 đồng (chín triệu bốn trăm năm mươi bốn ngàn đồng) là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về lãi suất: Tại phiên tòa chị T đại diện ủy quyền cho ông P rút lại yêu cầu tính lãi suất. Do đó Hội đồng xét xử nghĩ nên đình chỉ đối với yêu cầu này.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; ông Nguyễn Thành P, bà Nguyễn Thị Thu E chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Các Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Điều 26, 35, 39, 144, 147, 217, 228, 235, 244 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thanh P.

- Buộc ông Nguyễn Thanh P, bà Nguyễn Thị Thu E có nghĩa vụ trả cho ông Trần Thanh P số tiền vốn vay 9.454.000 đồng (chín triệu bốn trăm năm mươi bốn ngàn đồng) Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Đình chỉ đối với yêu cầu tính lãi xuất của ông Trần Thanh P.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Nguyễn Thành P, bà Nguyễn Thị Thu E phải chịu án phí 472.000 đồng (bốn trăm bảy mươi hai ngàn đồng).

- Ông Trần Thanh P được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0008249 ngày 27.4.2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Đương sự có mặt tham gia phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/DS-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:107/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về