TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 107/2019/HSST NGÀY 10/05/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 10 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2019/TLST-HS, ngày 16/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2019/QĐ-TA ngày 22/4/2019 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Phạm Văn M, sinh năm: 1995 tại Nam Định; Nơi đăng ký NKTT và cư trú: Thôn T, xã Y, huyện Y, tỉnh N; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;Nghề nghiệp: Lái máy xúc tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Phạm Văn Đ, sinh năm: 1962; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1961; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 16/12/2018 đến ngày 20/12/2018 hủy bỏ biện pháp tạm giữ; Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Trần Văn Q, sinh năm: 1997 tại Nam Định; Nơi đăng ký NKTT và cư trú: Thôn L, xã Y, huyện Y, tỉnh N; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Thợ mộc tự do; Con ông: Trần Văn Q, sinh năm: 1970; Nghề nghiệp: Thợ mộc tự do; Con bà: Đinh Thị T, sinh năm: 1976; Nghề nghiệp: Thợ phụ hồ; Tiền án, tiền sự: Không; Bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 17/12/2018 đến ngày 20/12/2018 hủy bỏ biện pháp tạm giữ; Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 11, đầu tháng 12 năm 2018, bị cáo Phạm Văn M có ý định mua pháo về bán nên đã rủ bị cáo Trần Văn Q cùng tham gia, bị cáo Q đồng ý. Hai bị cáo thỏa T tiền lãi từ việc mua bán pháo sẽ chia đôi. Sau đó, bị cáo Q liên hệ với anh họ là Trần Văn T (sinh năm: 1984; Nơi đăng ký HKTT: Xã Y, huyện Y, tỉnh N) đang ở Lạng Sơn nhờ mua pháo loại 36 ống/hộp, anh T báo giá 600.000đồng/hộp. Bị cáo M sử dụng tài khoản Facebook tên “Phạm Văn M” vào hội “Chim săn” đăng tin rao bán pháo thì có người sử dụng tài khoản Facebook “Oanh Hien” đặt mua 10 hộp pháo. bị cáo M báo giá 1.100.000đ/hộp, người này đồng ý. Khoảng 2-3 ngày sau Facebook tên “Oanh Hien” gửi tiền đặt cọc 2.000.000 đồng qua xe khách về Nam Định cho bị cáo M. Đầu tháng 12 năm 2018, bị cáo M đưa cho bị cáo Q 6.000.000 đồng để bị cáo Q đặt mua pháo. bị cáo Q đã chuyển 6.000.000 đồng cho Tđể đặt mua 10 hộp pháo. Do T đang nợ bị cáo Q 1.200.000 đồng nên bị cáo Q bảo T trả bằng 2 hộp pháo. Đêm ngày 14/12/2018, bị cáo Q đi xe khách lên bến xe Lạng Sơn gặp T. Tại đây, T chỉ cho bị cáo Q chiếc xe khách để bị cáo Q quay về Nam Định luôn và dặn bị cáo Q 12 hộp pháo đã để kín trong ba lô ở cốp xe khách, đồng thời đưa chìa khóa ba lô cho bị cáo Q. bị cáo M cất giấu 10 hộp pháo vào thùng các tông để trong chuồng lợn, 1 hộp pháo trong kho thóc nhà bị cáo M, còn 01 hộp pháo bị cáo Q mang về nhà bị cáo Q.
Sau khi mua được pháo, bị cáo M đã liên hệ qua tài khoản Facebook “Oanh Hien” và số điện thoại 0328952163 để hẹn nhau giao pháo tại phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Sáng ngày 16/12/2918, bị cáo M thuê xe taxi BKS 35A – 093.68 của anh Nguyễn Khắc Tr mang theo thùng cát tông dán kín, bên trong đựng 10 hộp pháo đi từ Nam Định đến khu vực chợ Tân Xuân, thuộc phường Xuân Đỉnh. Bị cáo nói với anh T là thùng hàng đông lạnh. Khi anh T đỗ xe để bị cáo M chờ người đến nhận pháo thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế Công an quận Bắc Từ Liêm bắt quả tang cùng vật chứng là một thùng cát tông kích thước 40x37x61cm bên trong có 10 hộp hình hộp kích thước (14,5x14,5x15)cm, một điện thoại di động Oppo màu trắng, gắn sim số 0973526500 và thu giữ 01 khối hộp kích thước khoảng 14x14x14cm bên ngoài vỏ có ghi chữ nước ngoài để ở trong bao tải màu vàng tại kho thóc của gia đình bị cáo M.
Ngoài ra cơ quan Công án đã thu giữ của anh Nguyễn Khắc Tr xe ô tô nhãn hiệu I10, BKS 35A – 093.68 và thu giữ của bị cáo Q một điện thoại Sam sung màu vàng đồng, gắn sim số 0976552997 Tại kết luận giám định số 9490 ngày 22/12/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội đã kết luận: 10 khối hình hộp có kích thước mỗi khối (14,5x14,5x15)cm, bên trong mỗi khối có 36 ống hình trụ bằng giấy bịt kín 2 đầu có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ). Tổng khối lượng 14,05kg.
Tại kết luận giám định số 9560 ngày 25/12/2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: 01 khối hình hộp có kích thước mỗi khối (14,5x14,5x15)cm, bên trong mỗi khối có 36 ống hình trụ bằng giấy bịt kín 2 đầu có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ). Tổng khối lượng 1,410kg.
Hộp pháo để tại nhà bị cáo Q, bị cáo đã đốt nên không thu hồi được.
Chiếc xe ô tô BKS 093.68 nhãn hiệu Huyndai I10 thu giữ của anh Nguyễn Khắc Tr, đứng tên đăng ký chủ sở hữu là Công ty TNHH Thương mại và Du lịch N; Địa chỉ: Số 1, đường H, phường B, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Ngày 06/6/2017, Công ty TNHH Thương mại và Du lịch N đã bàn giao xe cho lái xe anh T là để hoạt nhánh Công ty TNHH Thương mại và Du lịch N. Anh Nguyễn Khắc Tr khi điều khiển xe ô tô taxi chở bị cáo M không biết thùng hàng bị cáo M mang theo là pháo nên không xử lý.
Anh Trần Văn T, qua điều tra xác định đã đi khỏi nhà từ tháng 7/2018, chính quyền địa phương và gia đình không biết T đi đâu, làm gì. Bị cáo khi nhờ T mua pháo cũng không biết địa chỉ cụ thể của T ở Lạng Sơn nên không rõ T làm gì, ở đâu. Ngày 12/3/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định tách rút tài liệu liên quan đến T để xử lý sau.
Đối tượng đặt mua pháo của bị cáo M có tài khoản Facebook “Oanh Hien” sử dụng số điện thoại 0328952163 không xác định được. Qua xác minh số điện thoại 0328952163 có chủ thuê bao là anh Vũ Ngọc H (sinh năm: 1998, HKTT: xã T, huyện M, tỉnh N). Anh Vũ Ngọc H trình bày anh không sử dụng và không đăng ký số điện thoại trên cũng không liên quan đến sự việc mua bán pháo.
Tại Bản cáo trạng số 80/CT-VKS, ngày 29/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố truy tố các bị cáo Phạm Văn M và Trần Văn Q về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn M mức án từ 12 đến 16 tháng tù; Xử phạt bị cáo Trần Văn Q mức án từ 15 đến 18 tháng tù; Tịch thu tiêu hủy số pháo đã thu giữ của các bị cáo; Tịch thu sung công quỹ một điện thoại di động màu trắng, nhãn hiệu OPPO bị vỡ màn hình; 01 điện thoại Samsung màu vàng đồng; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: Bị cáo Trần Văn Q rủ bị cáo Phạm Văn M cùng mua pháo về bán lại kiếm lời. bị cáo M đưa cho bị cáo Q 6.000.000 đồng, bị cáo Q thêm 1.200.000 đồng mua được 12 hộp pháo. Khoảng 10 giờ ngày 16/12/2018, bị cáo M mang 10 hộp pháo có tổng khối lượng 14,05kg đến khu vực chợ Tân Xuân, phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội để bán thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Ngoài ra còn thu giữ 01 hộp pháo có khối lượng 1,41kg tại nơi ở của bị cáo M. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt áp dụng đối với các bị cáo được quy định tại Khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế được luật hình sự bảo vệ. Các bị cáo đã buôn bán pháo nổ là mặt hàng bị Nhà nước cấm kinh doanh. Buôn bán, tàng trữ, sử dụng pháo nổ không những gây mất trật tự trị an xã hội, việc sử dụng pháo nổ gây nhiều hệ lụy, làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi nên các bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội.
Các bị cáo thực hiện hành vi phạm có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, cùng rủ nhau thực hiện tội phạm và thực hiện tội phạm với vai trò là người thực hành.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Xét hành vi phạm tội, tính chất tội phạm, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Một thùng cát tông kích thước (40x37x61)cm bên trong có 10 hộp hình hộp chữ nhật, kích thước khoảng (14x14x115)cm, một bao tải dứa màu vàng, bên trong có một hộp pháo hình chữ nhật, kích thước (14,5x14,5x15)cm thu giữ của bị cáo M là hàng cấm và không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động màu trắng, nhãn hiệu OPPO bị vỡ màn hình thu giữ của bị cáo M và chiếc điện thoại Samsung màu vàng đồng thu giữ của bị cáo Q là phương tiện các bị cáo liên lạc, mua bán hàng cấm, liên quan đếntội phạm nên cần tịch thu sung quỹ.
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, cơ quan điều tra, điều tra viên, cơ quan kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các quyền nghĩa vụ của mình, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, khởi tố, kết luận điều tra, truy tố bị cáo theo đúng tội danh, khung hình phạt.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn M, Trần Văn Q phạm tội “Buôn bán hàng cấm ”.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự
2.1. Xử phạt bị cáo Phạm Văn M 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 16/12/2018 đến ngày 20/12/2018.
2.2. Xử phạt bị cáo Trần Văn Q 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/12/2018 đến ngày 20/12/2018.
3. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2018/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
3.1. Vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy một thùng cát tông (Đã niêm phong) kích thước khoảng (40x37x61)cm bên trong có 10 hộp hình hộp chữ nhật, kích thước (14x14x115)cm, một bao tải dứa màu vàng (Đã niêm phong), bên trong có một hộp pháo hình chữ nhật, kích thước (14,5x14,5x15)cm; Tịch thu sung quỹ một điện thoại di động màu trắng, nhãn hiệu OPPO đã quan sử dụng, bị vỡ màn hình; Một điện thoại Samsung màu vàng đồng đã qua sử dụng. Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 133/19 ngày 02/4/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra và Chi cục thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm.
3.2. Về án phí và quyền kháng cáo: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 107/2019/HSST ngày 10/05/2019 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 107/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về