Bản án 107/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 107/2019/HSST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 96/2019/HSST ngày 12 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019, quyết định hoãn phiên toà số 138 ngày 06 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn T - Sinh năm 1975; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố 1, thị trấn S, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 7/12; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Nguyễn Văn T, con bà Trần Thị G; Bị cáo có vợ là Quàng Thị T và có 01 con sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ 12/5/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Hà Văn T - Sinh năm 1963; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố 1, thị trấn S, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 10/10; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Hà Văn T, con bà Lò Thị C; Bị cáo có vợ là Xa Thị K và có 01 người con hiện nay đã trưởng thành.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ 12/5/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi liên quan: Chị Xa Thị K - Sinh năm 1972

Trú tại: Tổ dân phố 1, thị trấn S, huyện S tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 00' ngày 12/5/2019 tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hợp với Công an xã Huổi Một, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Khua Họ, xã Huổi Một, huyện Sông Mã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T và Hà Văn T đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa nhựa thực vật màu đen (T khai nhận là nhựa thuốc phiện). Ngoài ra còn tạm giữ của T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS 26H5-7955. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Ngày 13/5/2019 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định, kết quả: Cân tịnh số nhựa thực vật màu đen có tổng khối lượng 9,01 gam, trích 1,51 gam ký hiệu T để giám định theo quy định. Vật chứng còn lại có khối lượng 7,50 gam ký hiệu T1.

Tại bản kết luận giám định số 897 ngày 16/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; Loại Thuốc phiện (nhựa thuốc phiện); tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,51 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 9,01 gam; loại Thuốc phiện (nhựa thuốc phiện).

Quá trình điều tra Nguyễn Văn T và Hà Văn T khai nhận: Khoảng 12 giờ 30' ngày 12/5/2019, T đến nhà T chơi, trong lúc ngồi nói chuyện, T nói sẽ đi vào xã Huổi Một để mua ma túy sử dụng, nghe vậy T cũng nói đi vào xã Huổi Một để tìm mua Thuốc phiện về để làm thuốc chữa bệnh. Sau đó T điều khiển xe mô tô của gia đình chở T ngồi sau cùng đi vào bản Co Mạ B, xã Huổi Một, huyện Sông Mã để mua ma túy, trên đường đi T có hỏi T có bao nhiêu tiền, T trả lời có 100.000đ, T cũng nói có 100.000đ. Khi đến giữa bản Co Mạ B, T và T đi vào nhà một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên khoảng 50 tuổi; tại đây T đưa cho T 100.000đ, T đưa cho người Mông có 200.000đ để nhờ đi mua hộ 100.000đ tiền Heroine cùng Hồng phiến và 100.000đ tiền thuốc phiện, người này nhận tiền và đi ra ngoài, khoảng 20 phút sau quay lại đưa cho T 01 gói nilon màu đen chứa Heroine cùng 01 viên Hồng phiến và 01 gói nilon màu trắng chứa nhựa thuốc phiện; T đưa lại cho T gói nilon màu đen, sau đó T bẻ lấy một mảnh viên Hồng phiến và trích một ít Heroine trộn lẫn với nhau sử dụng bằng hình thức chích trực tiếp vào cơ thể, còn lại một ít Heroine và mảnh viên Hồng phiến T đưa cho T sử dụng bằng hình thức đốt hít qua đường hô hấp. Sử dụng ma túy xong, T cầm gói nilon màu trắng có chứa nhựa thuốc phiện ở trong lòng bàn tay phải, ngồi sau xe mô tô do T điều khiển xe đi về. Khi cả hai về đến khu vực bản Khua Họ, Huổi Một, Sông Mã thì bị tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hợp với Công an xã Huổi Một làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 94/CT-VKSSM ngày 12 tháng 8 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Nguyễn Văn T và Hà Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 BLHS xử phạt Nguyễn Văn T từ 20 - 24 tháng tù. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 BLHS xử phạt Hà Văn T từ 18 - 22 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy số ma túy và vật chứng liên quan. Miễn án phí hình sự cho các bị cáo; tuyên quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng các bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 14h10’ngày 12/5/2019, bắt quả tang Nguyễn Văn T và Hà Văn T có hành vi cất giấu một gói nilon có chứa chất nhựa màu đen nghi là thuốc phiện.

- Vật chứng bị thu giữ gồm 9,01gam nhựa màu đen; Kết luận giám định số 897 ngày 16/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận số chất nhựa màu đen đã thu được của các bị cáo đã kết luận là ma tuý, loại thuốc phiện.

- Lời khai của Hà Văn T về việc thừa nhận biết T sẽ mang Thuốc phiện về nhà.

 - Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm.

Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 BLHS là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 12/5/2019 Hà Văn T và Nguyễn Văn T cùng rủ nhau đi vào bản Co Mạ B, xã Huổi Một, huyện Sông Mã mua được 01 gói Heroine, 01 viên Hồng phiến và 01 gói nhựa thuốc phiện với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, T và T chia nhau sử dụng hết Heroine và viên Hồng phiến, số thuốc phiện T cầm để mang về nhà. Khi về đến khu vực bản Khua Họ, xã Huổi Một, huyện Sông Mã thì bị tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hợp với Công an xã Huổi Một, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang. Số ma tuý bị thu giữ có khối lượng là 9,01gam, loại Thuốc phiện.

Hành vi các bị cáo thực hiện đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[4] Về vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này các bị cáo có vai trò như nhau, trước khi cùng nhau đi mua ma tuý đều có ý định đi mua, cùng nhau góp tiền mua, cùng nhau trao đổi nhờ người mua ma tuý. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, khối lượng ma túy các bị cáo tàng trữ, vai trò của các bị cáo để quyết định một mức án phù hợp với từng bị cáo nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, gia đình các bị cáo đều là hộ nghèo, cận nghèo vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông các bị cáo khai đã đi mua ma túy cho các bị cáo, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra, mở rộng vụ án.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dream BKS 26H5-7955 có đăng ký xe mang tên Lý Thị T mà bị cáo T dùng làm phương tiện thực hiện tội phạm, quá trình điều tra đã xác định được là tài sản chung của vợ chồng Hà Văn T và chị Xa Thị K, khi Thiêm sử dụng chiếc xe mô tô để đi mua ma túy chị K không biết nên Cơ quan CSĐT đã trao trả lại chiếc xe cho chị Khâm là có căn cứ.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với 7,50 gam nhựa thuốc phiện, 01 mảnh túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, cần tịch thu tiêu huỷ.

[8] Về án phí: Do gia đình các bị cáo đều là hộ nghèo, cận nghèo nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn T và Hà Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 (mười tám) tháng tù

- Thời hạn thụ hình tính từ ngày 12/5/2019.

- Xử phạt bị cáo Hà Văn T 18 (mười tám) tháng tù

- Thời hạn thụ hình tính từ ngày 12/5/2019.

2- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

 - Tịch thu tiêu hủy:

+ 7,50g (bảy phẩy năm mươi gam) thuốc phiện.

+ 01 (một) mảnh ni lon màu trắng.

+ 01(một) vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu (các vật chứng trên được đựng trong một phong bì còn nguyên niêm phong).

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2019 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3- Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Các bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 02/10/2019./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về