Bản án 107/2017/HSST ngày 09/11/2017 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 107/2017/HSST NGÀY 09/11/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 09 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 93/2017/HSST ngày 01 tháng 10 năm 2017, đối với các bị cáo: 

1. Tạ Đình H; Sinh năm 1985, tại T

Nơi cư trú: Thôn x, xã T, huyện B, tỉnh B; số chứng minh nhân dân 285279185; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; con ông Tạ Đình Nuôi, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị Tường , sinh năm 1955; Vợ Nguyễn Thị Như Quỳnh, sinh năm 1991 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2010; Tiền sự, Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/7/2017 đến ngày 28/7/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn (Có mặt).

2. Nguyễn Văn H1; Sinh năm 1973, tại N

Nơi cư trú: Thôn x, xã T, huyện B, tỉnh B; số chứng minh nhân dân 161665xxx; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn H và bà Phan Thị S; Vợ Vũ Thị H, sinh năm 1973 và 03 người con; Tiền sự, Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/7/2017 đến ngày 05/9/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn (Có mặt).

3. Nguyễn Thanh S; Sinh năm 1964, tại N

Nơi cư trú: Thôn x, xã T, huyện B, tỉnh B; số chứng minh nhân dân 285185xxx; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1936 (đã chết) và bà Trần Thị S, sinh năm 1936 (đã chết); Vợ Bùi Thị T, sinh năm 1966 và 03 người con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1994; Tiền sự, Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/7/2017 đến ngày 05/9/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn (Có mặt).

4. Lê Bá S1; Sinh năm 1976, tại T

Nơi cư trú: Thôn 9, xã T, huyện B, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; con ông Lê Bá D, sinh năm 1936 (đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1940 (đã chết); Vợ Đoàn Thị L, sinh năm 1976 và 04 người con, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền sự: Không. Tiền án: Ngày 21/11/2008 bị Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và phạt bổ sung số tiền 5.000.000đ về “Tội đánh bạc”, tại bản án số 151/HSPT. Bị cáo đã chấp hành xong thời gian thử thách nhưng ngày 08/9/2017, mới đóng án phí vụ án và nộp hình phạt bổ sung. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/7/2017 đến ngày 19/10/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 30 ngày 19/7/2017, Tạ Đình H cùng với Nguyễn Thanh S và Lê Bá S1 rủ nhau đánh bài phỏm ăn tiền. Do thiếu người nên Tạ Đình H dùng điện thoại rủ Nguyễn Văn H1 đến chơi thì H1 đồng ý. Sau đó H1 đến nhà S rồi tất cả vào phòng trọ của S để đánh. Các bị cáo tự quy định mỗi người phải bỏ ra 5.000.000 đồng để trên chiếu bạc gọi là tiền tẩy, đồng thời quy ước và tính thắng thua như sau:

Các đối tượng sử dụng bộ bài tây 52 lá và chia mỗi người 09 lá bài, người đánh đầu được 10 lá. Kết quả sau bốn vòng đánh bài, hạ phỏm rồi tính điểm.

+ Phỏm: Là trên bài có 03 lá bài cùng giá trị về điểm hoặc 03 lá bài liền nhau, cùng chất như: Cơ, rô, nhép, bích.

+ Cháy: Là khi chơi đến lúc phải hạ bài mà vẫn không có phỏm.

+ Luật đền: Nếu người đánh bài cho người bên cạnh ăn 03 cây bài để họ “Ù” thì người cho ăn phải đền tiền cho những người còn lại.

+ Người nào cho người bên cạnh ăn cây bài chốt hạ thì phải trả 400.000 đồng cho người ăn cây bài đó.

+ Người nào cho người bên cạnh ăn quân bài “ K” thì mất 200.000 đồng.

+ Người nào nhất hoặc “Ù” thì ván kế tiếp được quyền đánh trước, cứ một ván đánh theo chiều kim đồng hồ thì ván sau đánh ngược chiều kim đồng hồ. Cách tính điểm cho các lá bài: Quân K là 13 điểm; Quân Q là 12 điểm; Quân J là 11 điểm; Quân A là 01 điểm; còn lại các quân bài từ 02 đến 10 thì được tính điểm tương ứng.

Người ít điểm nhất sẽ ăn tiền của 03 người còn lại; người ít điểm nhất sẽ thắng được của những người thua 600.000 đồng; người ít điểm thứ hai thua 100.000 đồng; người ít điểm thứ ba thua 200.000 đồng; người nhiều điểm nhất thua 300.000 đồng, còn nếu không có phỏm thì thua 400.000 đồng. Người nào “Ù” thì mỗi người phải trả cho người “ Ù” 500.000 đồng.

Khi bắt đầu vào chơi Nguyễn Văn H1 mang theo 6.700.000 đồng, sử dụng 5.000.000 đồng để đặt tẩy; Tạ Đình H mang theo 6.000.000 đồng, sử dụng 5.000.000 đồng để đặt tẩy; Lê Bá S1 mang theo 5.350.000 đồng sử dụng đánh bạc còn Nguyễn Thanh S sử dụng khoảng 5.000.000 đồng để đánh bạc. Số tiền còn lại trên người của Tạ Đình H và Nguyễn Văn H1 cũng sử dụng để đánh bạc.

Đến khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, khi các bị cáo đang đánh bài thì bị Công an huyện B phối hợp với Công an xã T bắt quả tang. Thu giữ tại chiếu bạc tổng số tiền 20.000.000 đồng, trong đó có 300.000 đồng tiền xâu trong ly thủy tinh, hai bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 tấm chiếu nhựa và 01 ly thủy tinh ngoài ra kiểm tra trên người các đối tượng thu giữ được 3.050.00 đồng, 01 điện thoại di động Mobistar B209 màu trắng, số Imel 2482419 kèm theo 01 sim bên trong số sim 8984040667001067417, 01 điện thoại hiệu Vivo V3Max màu trắng, số Imei 860801035323526.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình nêu trên. Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm về tội danh đã truy tố đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: thu giữ số tiền đánh bạc 23.050.000đ, 02 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động Mobistar B209 màu trắng, số Imel 2482xxx kèm theo 01 sim bên trong số sim 898404066700106xxx, 01 điện thoại hiệu Vivo V3Max màu trắng, số Imei 860801035323xxx, 01 ly thủy tinh, 01 chiếu nhựa kích thước khoảng 1,6 x 2m.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến về vật chứng đã bị thu giữ. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 23.050.000đ, 01 điện thoại di động Mobistar B209 màu trắng, số Imel 2482xxx kèm theo 01 sim bên trong số sim 89840406670010674xxx, 01 điện thoại hiệu Vivo V3Max màu trắng, số Imei 860801035323xxx. Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 ly thủy tinh, 01 chiếu nhựa.

Tại bản cáo trạng số: 91/CTr –VKS ngày 28/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố các bị cáo Nguyễn Văn H1, Tạ Đình H, Nguyễn Thanh S và Lê Bá S1 về “Tội đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm “Tội đánh bạc”; về hình phạt, áp dung Khoản 1 Điều 248 điểm h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 20, Điều 53, Điều 30 của Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn H1, Tạ Đình H, Nguyễn Thanh S mỗi bị cáo từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ. Áp dung Khoản 1, Khoản 3 Điều 248 điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, điểm g Khoản 1 Điều 48, Điều 20, Điều 53; Điều 33 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Bá S1 từ 06 đến 09 chín tháng tù, phạt bổ sung số tiền từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ; Về vật chứng vụ án: tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 23.050.000đ, 01 điện thoại di động Mobistar B209 màu trắng kèm theo 01 sim, 01 điện thoại hiệu Vivo V3Max màu trắng. Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 ly thủy tinh, 01 chiếu nhựa; Về án phí buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Các bị cáo Nguyễn Văn H1, Tạ Đình H, Nguyễn Thanh S và Lê Bá S1 thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vẫn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng, các bị cáo hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Khoảng 16 giờ 30 ngày 19/7/2017, Tạ Đình H cùng với Nguyễn Thanh S và Lê Bá S1 rủ nhau đánh bài phỏm ăn tiền. Do thiếu người nên Tạ Đình H dùng điện thoại của mình rủ Nguyễn Văn H1 đến chơi thì H1 đồng ý. Sau đó Nguyễn Văn H1 đến nhà S rồi tất cả vào phòng trọ của S để đánh bài “Phỏm”. Các bị cáo tự quy định mỗi người phải bỏ ra 5.000.000 đồng tiền tẩy để dưới chiếu, đồng thời quy ước luật chơi và tính thắng thua khi đánh bài như nội dung bản cáo trạng truy tố là đúng.

Khi bắt đầu vào chơi Nguyễn Văn H1 mang theo 6.700.000 đồng, Tạ Đình H mang theo 6.000.000 đồng, Lê Bá S1 mang theo 5.350.000 đồng, Nguyễn Thanh S mang theo 5.000.000 dùng vào mục đích đánh bạc.

Đến khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, khi các bị cáo tiếp tục đánh bài thì bị Công an huyện Bù Đăng phối hợp với Công an xã T bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc tổng số tiền 20.000.000 đồng, trong đó có 300.000 đồng tiền xâu trong ly thủy tinh, kiểm tra trên người các bị cáo thu giữ được 3.050.00 đồng cùng các tang vật vụ án.

Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi đánh bài “phỏm” thắng thua bằng tiền, tổng cộng 23.050.000đ của các bị cáo Tạ Đình H, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Thanh S và Lê Bá S1 đã phạm vào “Tội đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 của Bộ luật hình sự. Điều 248 Bộ luật hình sự quy định:

1.“Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này và điều 249 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là trái phép nhưng do coi thường pháp luật nên cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự công cộng và nếp sống văn minh xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo Tạ Đình H, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Thanh S phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Riêng bị cáo Lê Bá S1 đã từng bị Tòa án xét xử về “Tội đánh bạc”, cụ thể: bị Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và phạt bổ sung số tiền 5.000.000đ, tại bản án hình sự phúc thẩm số 151/HSPT, ngày 21/11/2008. Bị cáo đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo tuy nhiên đến ngày 08/9/2017 bị cáo mới đóng án phí vụ án và nộp hình phạt bổ sung nên chưa được xóa án tích, vì vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm. Qua đó thể hiện bị cáo là người xem thường pháp luật.

Các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm, nhưng mang tính chất giản đơn, đều là người thực hành nên phải chịu trách nhiệm tương đương với hành vi phạm tội đã thực hiện.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Bá S1 phạm tội thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo còn lại không ai có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Tạ Đình H, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Thanh S phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h Khoản 1 Khoản 1 Điều 46 Bộ Luật Hình sự. Tất cả các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đều là con em lao động là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ Luật Hình sự.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về vật chứng vụ án: Thu giữ số tiền 23.050.000đ là tiền các bị cáo dùng để đánh bạc, 01 điện thoại di động Mobistar B209 màu trắng, số Imel 2482xxx kèm theo 01 sim bên trong số sim 8984040667001067xxx và 01 điện thoại hiệu Vivo V3Max màu trắng, số Imei 860801035323xxxcác bị cáo Nguyễn Văn Hiệp và Tạ Đình H dùng để liên lạc với mục đích đánh bạc. Căn cứ theo căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 41 Bộ Luật Hình sự, điểm c Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình Sự cần tịch thu sung quỹ nhà nước; Đối với 02 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 ly thủy tinh, 01 chiếu nhựa kích thước khoảng 1,6 x 2m là đồ dùng để phục vụ cho việc đánh bài căn cứ điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình Sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố các bị cáo Tạ Đình H, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Thanh S và Lê Bá S1 phạm “Tội đánh bạc”.

+ Áp dụng Khoản 1 Điều 248, điểm h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 30, Điều 20, Điều 53 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Tạ Đình H: 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

+ Áp dụng Khoản 1 Điều 248, điểm h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 30, Điều 20, Điều 53 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Hiệp: 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

+ Áp dụng Khoản 1 Điều 248, điểm h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 30, Điều 20, Điều 53 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S: 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

+ Áp dụng Khoản 1, Khoản 3 Điều 248, điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, điểm g Khoản 1 Điều 48, Điều 33, Điều 20, Điều 53 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Lê Bá S1 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ vào thời hạn tạm giam trước từ ngày 19/7/2017 đến ngày 19/10/2017. Phạt bổ sung bị cáo Lê Bá S1 số tiền 10.000.000đ.

[2] Về vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm a, b Khoản 1 Điều 41 Bộ Luật Hình sự, điểm a, c Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình Sự;

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 23.050.000đ, 01 điện thoại di động Mobistar B209 màu trắng, số Imel 2482xxx kèm theo 01 sim Viettel và 01 điện thoại hiệu Vivo V3Max màu trắng, số Imei 53235xxx.

Áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình Sự: tịch thu tiêu hủy02 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 ly thủy tinh, 01 chiếu nhựa kích thước khoảng 1,6 x 2m (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009541 ngày 01/9/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng).

[3]. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Tạ Đình H, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Thanh S, Lê Bá S1mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. 

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2017/HSST ngày 09/11/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:107/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về