Bản án 1067/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1067/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 515/2020/TLST- HNGĐ ngày 19/5/2020 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 618/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 568/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14/9/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1975; địa chỉ: 72/1B ấp X2, xã X, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh. (có mặt)

Bị đơn: Ông Nguyễn Thế T, sinh năm 1968; địa chỉ: 72/1B ấp X2, xã X, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/4/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án,nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Thế T chung sống và được cấp giấy chứng nhận kết hôn từ năm 1998. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc do ông T gia trưởng, thường xúc phạm bà, vợ chồng không có tiếng nói chung, gia đình luôn căng thẳng, mệt mỏi. Nay các con đã lớn, bà không còn sức chịu đựng nữa nên bà xin ly hôn với ông T. Bà và ông T có 02 con chung là Nguyễn Thế H, sinh ngày 15/4/1999 và Nguyễn Thế C, sinh ngày 28/11/2002. Bà yêu cầu được nuôi dưỡng Nguyễn Thế C, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con, con chung Nguyễn Thế H đã đủ 18 tuổi. Vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung.

Bị đơn: ông Nguyễn Thế T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu được ly hôn, được nuôi dưỡng con chung chưa đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng, xác nhận không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung, không có nợ chung.

Phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án, Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự đã được bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Bà T và ông T có đăng ký kết hôn nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp; ông T được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do; mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được; con chung sinh năm 1999 đã trường thành, con chung sinh ngày 28/11/2002 có nguyện vọng ở với bà T; nguyên đơn xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung. Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn. Các đương sự đang cư trú tại huyện Hóc Môn. Do đó, xác định đây là tranh chấp ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Hóc Môn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của bị đơn: ông Nguyễn Thế T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, trong đó có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa kèm các Giấy triệu tập để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông T được Ủy ban nhân dân xã Hòa Minh, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 08, quyển số 01 ngày 11/3/1998 nên quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[4] Về yêu cầu ly hôn:

Bà T trình bày vợ chồng chung sống không hạnh phúc do vợ chồng không có tiếng nói chung, không cùng quan điểm sống làm cho cuộc sống gia đình luôn căng thẳng, bà bị xúc phạm nhiều lần làm ảnh hưởng rất xấu đến các con, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài khoảng 10 năm nay, bà chấp nhận chịu đựng do các con còn nhỏ nhưng nay các con đã lớn, sức chịu đựng của bà không còn nên bà cương quyết xin ly hôn ông T có sự ủng hộ của 02 con chung.

Ông T vắng mặt không lý do mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, trong đó tại biên bản không thể thực hiện được việc tống đạt ngày 01/7/2020 ghi nhận ông T có mặt ở nhà nhưng từ chối nhận Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mà không cho biết lý do, cũng không có ý kiến phản hồi là bỏ mặc mâu thuẫn vợ chồng, không có thiện chí hàn gắn, không có giải pháp hóa giải mâu thuẫn để đoàn tụ gia đình.

Nội dung biên bản xác minh ngày 09/7/2020, đại diện Ban nhân dân ấp Xuân Thới Đông 2, xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn xác định địa phương không nắm rõ mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông T.

Tại phiên tòa, mặc dù đã được động viên đoàn tụ vợ chồng nhưng bà T cương quyết xin ly hôn với ông T, không chấp nhận đoàn tụ vợ chồng với bất cứ lý do gì, bà xác định không còn sức lực để duy trì quan hệ hôn nhân với ông T.

Do đó, có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà T và ông T là có thật nhưng không ai có thiện chí hàn gắn, đoàn tụ làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[5] Về con chung, nuôi con chung và cấp dưỡng: Theo lời khai của bà T, Giấy khai sinh số 38/QH, quyển số 01/99 ngày 02/6/1999 của Ủy ban nhân dân phường Cô Giang, Quận 1, Tp.Hồ Chí Minh, Giấy khai sinh số 265, quyển số 02/2002 ngày 10/12/2002 của Ủy ban nhân dân phường Tân Thuận Đông, Quận 7, Tp.Hồ Chí Minh, xác định bà T và ông T có 02 con chung là Nguyễn Thế H, sinh ngày 15/4/1999 và Nguyễn Thế C, sinh ngày 28/11/2002. Con chung Nguyễn Thế H đã đủ 18 tuổi. Bà T yêu cầu trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Thế C là phù hợp với nguyện vọng của con chung tại bản tự khai ngày 17/7/2020, phù hợp với quy định tại Điều 81của Luật Hôn nhân và Gia đình nên yêu cầu của bà T là có cơ sở chấp nhận. Ghi nhận việc bà T tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà T trình bày không có nợ chung, không yêu cầu giải quyết tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, quy định:”Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ”. Ông T không có ý kiến phản hồi, không cung cấp tài liệu chứng cứ nên phải tự chịu trách nhiệm.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà T phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 266, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự:

Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình:

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Thế T.

- Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thế C, sinh ngày 28/11/2002; tạm ngừng nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Nguyễn Thế T cho đến khi có yêu cầu của bà Nguyễn Thị T. Con chung là Nguyễn Thế H sinh ngày 15/4/1999 đã đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Khi cần thiết, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: bà Nguyễn Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: bà Nguyễn Thị T trình bày không có.

2. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0077949 ngày 19/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn. Bà Nguyễn Thị T đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự .

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1067/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1067/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về