Bản án 1064/2019/HNGĐ-ST ngày 13/09/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1064/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 13 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 61/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2019, về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 387/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị H- sinh năm 1969

Thường trú: khu phố A, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên lạc: khu phố E, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Đặng Thành C- sinh năm 1962

Thường trú: khu phố A, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và lời trình bày của bà Lê Thị H trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa:

Bà và ông Đặng Thành C tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1986, sau đó năm 1997 ông bà có thực hiện việc đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân huyện T (nay là quận T), Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn cuộc sống chung của ông bà không hạnh phúc do ông C thường xuyên có hành vi bạo hành đối với bà, giữa vợ chồng không có sự chia sẻ với nhau. Tuy nhiên do con còn nhỏ nên bà cố gắng duy trì cuộc sống hôn nhân vì con. Nay con chung đã lớn và bà cũng không còn chịu đựng được nữa nên bà đã chuyển ra ngoài sinh sống từ tháng 6/2018 và ông bà đã sống ly thân cho đến nay. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc nên bà đề nghị được ly hôn với ông C.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Đặng Minh H1, sinh ngày 25/8/1987 và Đặng Thành T1 sinh ngày 01/7/1995, cả hai đều đã trưởng thành. Tuy nhiên, bà không cung cấp được giấy khai sinh của Đặng Minh H1. Do bà không xác định được đã đăng ký khai sinh vào ngày, tháng, năm nào, bà chỉ nhớ thực hiện việc đăng ký khai sinh tại Uỷ ban nhân dân phường B, quận T khi con chung tên Đặng Minh H1 đến tuổi đi học.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Ông Đặng Thành C trình bày trong quá trình tham gia tố tụng:

Về quan hệ hôn nhân đúng như bà H đã trình bày. Ông thừa nhận cuộc sống vợ chồng của ông bà không hạnh phúc là do ông, thỉnh thoảng ông có đánh bà H, nhưng sau lần ông đánh bà H vào tháng 6/2018 và bà H đã chuyển ra khỏi nhà sinh sống thì ông đã thay đổi. Nay ông xác định vẫn còn thương vợ nên ông không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Có 02 con chung tên Đặng Minh H1, sinh ngày 25/8/1987 và Đặng Thành T1 sinh ngày 01/7/1995, cả hai đều đã trưởng thành.

Ông không cung cấp được giấy khai sinh của Đặng Minh H1. Tuy nhiên, ông xác định ông là cha của con chung tên Đặng Minh H1 sinh ngày 25/8/1987. Ông thống nhất với ý kiến của bà H là ông không xác định được đã đăng ký khai sinh vào ngày, tháng, năm nào, ông chỉ nhớ thực hiện việc đăng ký khai sinh tại Uỷ ban nhân dân phường B, quận T khi con chung tên Đặng Minh H1 đến tuổi đi học.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ông Đặng Thành C đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn nên căn cứ Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Ông Đặng Thành C cư trú tại quận Thủ Đức nên căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Ông Đặng Thành C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Công.

[3] Về hôn nhân: Bà Lê Thị H và ông Đặng Thành C tự nguyện kết hôn và chung sống với nhau theo giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân huyện T (nay là quận T), Thành phố Hồ Chí Minh cấp. Do đó, hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật công nhận. Ngày 20/12/2018 bà H nộp đơn yêu cầu ly hôn với ông C, quá trình giải quyết vụ án, bà H kiên quyết yêu cầu ly hôn.

Xét yêu cầu ly hôn của bà H: Bà H và ông C đều thừa nhận trong quá trình chung sống ông bà có phát sinh mâu thuẫn do ông C có hành vi bạo hành đối với bà H. Sau lần ông C đánh bà H vào tháng 6/2018 thì bà H đã chuyển ra ngoài sinh sống cho đến nay. Xét thấy, để duy trì cuộc sống gia đình hạnh phúc thì trong quá trình chung sống hai vợ chồng cần có sự vun đắp xây dựng tình cảm với nhau thường xuyên, cả hai vợ chồng cần có sự thương yêu, chia sẻ, tôn trọng đối với nhau, cả hai đều cùng có mong muốn xây dựng gia đình chung sống cùng nhau. Nay bà H xác định không còn tình cảm với ông C. Từ những lý do trên, có căn cứ khẳng định quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông C đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà H là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Bà H và ông C thống nhất trình bày ông bà có 02 con chung tên Đặng Minh H1, sinh ngày 25/8/1987 và Đặng Thành T1 sinh ngày 01/7/1995, cả hai con chung đều đã trưởng thành. Ông bà không cung cấp được giấy khai sinh của Đặng Minh H1, sinh ngày 25/8/1987, ông bà xác định đã thực hiện việc đăng ký khai sinh cho Đặng Minh H1 tại Ủy ban nhân dân phường B, quận T khi con chung đến tuổi đi học.

Qúa trình giải quyết vụ án, Toà án đã xác minh tại Ủy ban nhân dân phường B, quận T và được phúc đáp như sau: Sổ bộ khai sinh năm 1987 đến năm 1994 đang lưu trữ tại Ủy ban nhân dân phường B không có tên Đặng Minh H1. Căn cứ sổ hộ khẩu số S do Công an quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho gia đình bà H, ông C đã ghi nhận Đặng Minh H1 sinh ngày 25/8/1987. Bà H, ông C đã đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân huyện T (nay là quận T), Thành phố Hồ Chí Minh cấp và đều thừa nhận Đặng Minh H1 là con chung.

Khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. Như vậy, từ các căn cứ trên có cơ sở xác định Đặng Minh H1 sinh ngày 25/8/1987 là con chung của bà Lê Thị H và ông Đặng Thành C.

Căn cứ giấy khai sinh do Ủy ban nhân dân xã B, huyện T (nay là phường B, quận T), Thành phố Hồ Chí Minh cấp có căn cứ xác định bà Lê Thị H và ông Đặng Thành C có con chung tên Đặng Thành T1 sinh ngày 01/7/1995.

Bà H, ông C thống nhất xác định cả 02 con chung Đặng Minh H1 sinh ngày 25/8/1987 và Đặng Thành T1 sinh ngày 01/7/1995 đã đủ tuổi trưởng thành.

[5] Về tài sản chung: Bà H, ông C xác định không yêu cầu Toà án giải quyết.

[6] Về nợ chung: Bà H, ông C xác định không có.

[7] Về án phí: Bà H phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Bà Lê Thị H được ly hôn ông Đặng Thành C.

2. Về con chung: có 02 con chung tên Đặng Minh H1 sinh ngày 25/8/1987 và Đặng Thành T1 sinh ngày 01/7/1995. Cả hai đã đủ tuổi trưởng thành.

3. Về tài sản chung: Bà Lê Thị H và ông Đặng Thành C xác định không yêu cầu Toà án giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Lê Thị H và ông Đặng Thành C xác định không có.

5. Về án phí: Bà Lê Thị H chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Lê Thị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0023452 ngày 21/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức.

6. Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị H có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Đặng Thành C có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1064/2019/HNGĐ-ST ngày 13/09/2019 về ly hôn

Số hiệu:1064/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về