Bản án 106/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 106/2019/HS-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ny 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 99/2019/TLST-HS ngày 11/7/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2019/QĐXXST-HS ngày 09/8/2019 đối với các bị cáo sau.

1- Vàng Văn C, sinh năm 1995, tại Bắc Hà, Lào Cai.

HKTT: thôn Nậm Giá, xã Cốc Ly, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.

Nơi cư trú: thôn Ô Cách, xã Đông Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Bảo vệ - Trình độ văn hoá lớp 09/12.

Dân tộc: Nùng; giới tính: N; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam

Con ông: Vàng Văn Hiểu, sinh năm 1967.

Con bà: Nù Thị Vù, sinh năm 1966. Vợ, con: chưa có.

Tin án, tiền sự: không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2019 đến nay ( có mặt tại phiên tòa ).

2- Bùi Văn H, sinh năm 1996. tại huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hoà Bình.

Nơi đăng ký HKTT: xóm Tân Phúc, xã Bảo Hiệu, huyện Yên Thuỷ,tỉnh Hoà Bình.

Nơi cư trú: thôn Ô Cách, xã Đông Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Bảo vệ – Trình độ văn hoá lớp 11/12.

Dân tộc: Mường; Giới tính: N; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt N.

Con ông: Bùi Văn Hải, sinh năm 1973. Con bà: Bùi Thị Thịnh, sinh năm 1973. Vợ, con: chưa có.

Tin án, tiền sự: không Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2019 đến nay ( có mặt tại phiên toà) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti bản Cáo trạng số 97/CT-VKSYP ngày 09/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong truy tố hành vi phạm tội của các bị cáo:

Khong 10 giờ ngày 12/5/2019 Nguyễn Văn N, sinh năm 1990 trú tại Ngọ Phúc, Châu M, Hiệp Hoà, Bắc Giang gọi điện thoại cho bị cáo C để hỏi mua 01 gói ma tuý của C, C đồng ý. Sau đó C điện thoại cho bị cáo H để nhờ H đi mua cho C 01 gói ma tuý để C bán cho N. Bị cáo H đồng ý và gọi điện thoại cho một N thanh niên H không quen biết để hỏi mua ma tuý (số điện thoại của người thanh niên này H được một người bạn xã hội cho). Người thanh niên đồng ý và hẹn H ra vòng xuyến khu công nghiệp huyện Yên Phong để giao ma tuý. Bị cáo H đi nhờ xe của một người đi đường ra vòng xuyến và mua được 01 gói ma tuý (Heroine) với giá 200.000đ. Khoảng 15 giờ cùng ngày, bị cáo C điện thoại cho bị cáo H và bảo H mang gói ma tuý vừa mua được ra khu vực bốt bảo vệ nơi C và H làm nhiệm vụ để C bán cho N. Đến khoảng 15 giờ 30 phút thì thấy N đến, lúc này H đưa gói ma tuý cho C, C cầm gói ma tuý rồi đi về phía N (cách chỗ H đứng khoảng 6 mét). N lấy 01 tờ tiền polime mệnh giá 200.000đ đưa cho C, C cầm tiền đút vào túi quần phía trước bên trái và đưa cho N 01 gói ma tuý được bọc bằng giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng rắn (heroine). N cầm gói ma tuý vừa mua được của C tại lòng bàn tay phải. Đúng lúc này lực lượng Công an đã tiến hành kiểm tra và bắt quả tang C, H và N đang có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý, thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nhỏ bọc bằng giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng rắn tại lòng bàn tay phải của Nguyễn Văn N; 01 tờ tiền polime mệnh giá 200.000đ có số seri: 09976375 tại túi quần phía trước bên trái của Vàng Văn C đang mặc.

Cùng ngày lực lượng Công an huyện Yên Phong đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật, tài sản của C và H tại nhà trọ của anh Đoàn Văn M, sinh năm 1966 và nhà anh Trương Văn Nhung, sinh năm 1961 cùng trú tại Ô Cách, xã Đông Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, nhưng không thu giữ gì.

Ti bản Kết luận giám định số 435/KLGĐMT-PC09 ngày 12/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

+ Chất bột màu trắng dạng rắn bên trong 01 gói giấy nhỏ màu trắng có khối lượng 0,0339 gam là ma tuý; Loại ma tuý Heroine.

Vi hành vi trên Cáo trạng của VKSND huyện Yên Phong đã truy tố bị cáo Vàng Văn C và Bùi Văn H với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, điều 251 BLHS, có mức hình phạt từ hai năm đến bảy năm.

Ti phiên tòa bị cáo C, H khai nhận: Toàn bộ hành vi phạm tội của bị cao như bản Cáo trạng đã truy tố bị cáo ra trước Toà án để xét xử về tội :Mua bán trái phép chất ma tuý” là đúng người đúng tội không có oan sai gì, bản thân bị cáo làm bảo vệ hàng tháng thu nhập từ 4.000.000đ đến 5.000.000đ ngoài ra không có thu nhập gì khác, bị cáo có ông, bà nội được tặng huân huy chương, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và xã hội.

Ti phiên tòa đại diện VKSND huyện Yên Phong thực hành quyền công tố đã phân tích đánh giá chứng cứ hành vi phạm tội của các bị cáo, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như nhân thân của từng bị cáo giữ nguyên bản Cáo trạng số 97/CT-VKSYP ngày 09/7/2019 của VKSND huyện Yên Phong đã truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Vàng Văn C và Bùi Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Áp dụng khoản 1 điều 251, điểm s khoản 1,2 điều 51, điều 38 BLHS. Xử phạt C từ 26 đến 28 tháng tù, xử phạt H từ 26 đến 28 tháng tù Miễn hình phạt bổ xung cho các bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín trên phong bì có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ niêm phong của phòng KTHS Công an tỉnh Bắc Ninh, bên trong mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo kết luận số 435/KLGĐ-PC09 ngày 12/5/2019 của phòng PC09, 02 phong bì thư niêm phong trên phong bì có ghi que thử nước tiều của C và của H .

Tch thu xung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu 0PP0 A71 màu trắng hồng, ốp bằng nhựa màu trắng sau ốp có chữ ế cao ế quý ế cao sang ai chê tui ế tui tương vỡ mồm, có số IMEI 1: 8677660031554299, số IMEI2: 867760031554281, bên trong gắn sim Viettel số 0387708372 của C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Fly màu đen, số IMEI 1:357625080613196/01, số IMEI2: 35765180613192/01, bên trong gắn sim Viettel số 0357953625 của H và số tiền 200.000đ.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 12/5/2019 , tại khu vực bốt bảo vệ Công ty Samsung thuộc xã Yên Trung, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh lực lượng Công an huyện Yên Phong phối hợp với Công an xã Yên Trung tiến hành bắt quả tang bị cáo Vàng Văn C, Bùi Văn H đang có hành vi bán trái phép 0,0339 gam Heroine cho Nguyễn Văn N với giá 200.000đ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ ma tuý là một tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người, cũng từ tệ nạn ma tuý mà còn làm phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Với những chứng cứ hành vi phạm tội của các bị cáo như đã nêu trên. Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận khẳng định bị cáo C, bị cáo H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” tội phạm được quy định tại khoản 1 điều 251 BLHS. Hành vi đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục chung và phòng ngừa riêng đối với bị cáo.

Xét tính chất mức độ thấy: Tính chất mức độ là nghiêm trọng bởi lẽ ma tuý là một tệ nạn xã hội đang được lên án và loại bỏ trong đó các bị cáo lại không từ bỏ mà còn lao vào con đường nghiện ngập gây hại cho sức khoẻ của bị cáo cũng như ảnh hưởng đến đời sống kinh tế gia đinh.

Xét vai trò trong vụ án thấy: Trong vụ án này không có yếu tố tổ chức mà chỉ là đồng phạm giản đơn bởi lẽ khi N có nhu cầu mua ma tuý điện cho bị cáo C, bị cáo C đồng ý và điện cho H nhờ H để nhờ bị cáo H đi mua cho C , sau khi mua được ma tuý bị cáo C và H đã đem bán cho N thì bị bắt giữ, do vậy khi lượng hình thì cả C và H đều ngang nhau.

Xét về nhân thân các bị cáo thấy: cả hai bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự lần đầu bị đưa ra xét xử, xong Hội đồng xét xử thấy cần bắt các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới có thể cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và có ích cho xã hội.

Xét tình tiết giảm nhẹ thấy: Sau khi phạm tội tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đều khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, ngoài ra tình tiết giảm nhẹ “Gia đình có ông, bà có công với cách mạng” quy định tại điểm s khoản 1, 2 điều 51 BLHS.

Ngoài hình phạt chính lẽ ra cần áp dụng hình phạt bổ xung là phạt bị cáo một khoản tiền để xung công quỹ Nhà Nước, xong tại phiên toà các bị cáo đều khai nhận các bị cáo làm bảo vệ nếu làm đủ ngày công thì được từ 4.000.000đ đến 5.000.00đ ngoài ra các bị cáo không có thu nhập nào khác. Do vậy cần miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

Về vật chứng: Quá trình điều tra bắt giữ Cơ quan điều tra thu giữ gồm: 01 gói nhỏ bọc bằng giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng rắn tại lòng bàn tay phải của N; 01 tờ tiền polime mệnh giá 200.000đ tại túi quần phía trước bên trái của bị cáo C. Ngoài ra bị cáo C còn tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động 0PP0 A71 màu trắng hồng, ốp bằng nhựa màu trắng, phía sau ốp có chữ ế cao ế quý ế cáo sang ai chê tui ế tui tương vỡ mồm, bên trong gắn sim Viettel số 0387708372, số IMEI 1: 867760031554299, số IMEI 2: 867760031554281. Bị cáo H giao nộp 01 điện thoại di động Samsung J7 Fly màu đen bên trong gắn sim Viettel 0357953625, số IMEI 1: 357625080613196/01, số IMEI 2: 357651080613192/01. Xét thấy số vật chứng trên là ma tuý do nhà nước độc quyền quản lý và 02 phong bì thư niêm phong ký hiệu A3, A4 có ghi que thử nước tiểu của C và H cần tịch thu tiêu huỷ, riêng số tiền 200.000đ do mua bán ma tuý mà có và 02 chiếc điện thoại của bị cáo C, H dùng vào việc phạm tội cần tịch thu xung công quỹ nhà nước.

Đối với số ma tuý của C nhờ H mua hộ để bán cho N, H khai nhận nguồn gốc gói ma tuý trên là H mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ ở vòng xuyến khu công nghiệp Yên Phong vào sáng ngày 12/5/2019 với giá 200.000đ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong không có căn cứ để xử lý.

Đối với đối tượng Nguyễn Văn N, sinh năm 1990 trú tại Ngọ Phúc, Châu M, Hiệp Hoà, Bắc Giang là người mua ma tuý của C với giá 200.000đ, sau khi Cơ quan điều tra làm việc với N xong, lợi dụng trời tối và sơ hở của cán bộ trông coi nên Nguyễn Văn N đã bỏ trốn. Lực lượng Công an đã tiến hành truy bắt ngay nhưng không bắt được. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã tiến hành xác M tại xã Châu M, Hiệp Hoà, Bắc Giang đối với tên, tuổi, địa chỉ như N khai thì được biết tại Ngọ Phúc, Châu M, Hiệp Hoà, Bắc Giang không có đối tượng nào tên Nguyễn Văn N nên không có căn cứ làm rõ. Cơ quan điều tra đã tách hành vi của Nguyễn Văn N khi nào có căn cứ xác M làm rõ sẽ xử lý sau.

Việc truy tố và mức án do Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật, phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo cần được chấp nhận.

Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vàng Văn C và Bùi Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” .

Áp dung khoản 1 điều 251, điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 38 của Bộ luật hình sự

Xử phạt: Vàng Văn C 26 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/5/2019. Xử phạt: Bùi Văn H 26 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 12/5/2019. Áp dụng điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo Vàng Văn C và Bùi Văn H mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo Vàng Văn C và Bùi Văn H Về vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư niêm phong dán kín, trên phong bì có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Bên trong mẫu vật hoàn lại sau giám định kèm theo kết luận số 435/KLGĐ-PC09 ghi ngày 12/5/2019 của phòng PC09; 02 phong bì thư niêm phong ký hiệu A3, A4 trên phong bì có ghi que thử nước tiều của C và của H. Tịch thu xung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu 0PP0 A71 màu trắng hồng, ốp bằng nhựa màu trắng, sau ốp có chữ: ế cao ế quý ế cao sang ai chê tui ế tui tương xỡ mồm, có số IMEI 1: 8677660031554299, số IMEI2 : 867760031554281,bên trong gắn sim Viettel số 0387708372 của C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J7 Fly màu đen, số IMEI 1: 357625080613196/01, số IMEI2: 35765180613192/01, bên trong gắn sim Viettel số 0357953625 của H và số tiền 200.000đ. Hiện các vật chứng trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong quản lý.

Áp dụng điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Vàng Văn C và Bùi Văn H mỗi bị cáo phải chụi 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2019/HS-ST ngày 22/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:106/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về