Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 29/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 106/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 409/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 205/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 97/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Quách Ngọc D, sinh năm 1988 (Có mặt)

Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện D, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Tạ Hữu T, sinh năm 1986 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện D, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 06/5/2019, bản tự khai ngày 08/8/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Quách Ngọc D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T cưới nhau vào năm 2016 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H vào năm 2016. Thời gian đầu sống có hạnh phúc nhưng đến tháng 9 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm, vì anh T chỉ lo ăn chơi, đá gà, nhậu nhẹt, không lo cho gia đình dù nhiều lần chị đã khuyên năn nhưng anh vẫn không sửa đổi mà tính nào tật nấy, hiện tại anh chị vẫn sống chung một nhà nhưng việc ai người đó làm không ai quan tâm ai. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh T, không thể hàn gắn lại, mà chị yêu cầu kiên quyết được ly hôn với anh T.

- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Tạ Gia H, sinh ngày 30/01/2017, hiện đang sống chung với anh và chị. Khi ly hôn chị yêu cầu nuôi cháu Huy và không yêu cầu cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

- Tại phiên Tòa: chị D vẫn giữ yêu cầu khởi kiện không thay đổi gì.

* Tại bản tự khai ngày 30/82019, biên bản hòa giải ngày 30/8/2019, bị đơn anh Tạ Hữu T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh T thống nhất với lời trình bày của chị D về hôn nhân, quá trình chung sống, đăng ký kết hôn cũng như nguyên nhân mâu thuẫn, nhưng nay anh không đồng ý ly hôn vì anh vẫn còn thương vợ thương con.

- Về nuôi con chung: Thống nhất để chị D nuôi và anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về nội dung giải quyết vụ án:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng :

Thm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng, và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định của pháp luật. Riêng bị đơn anh Tạ Hữu T vắng mặt không lý do là vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D đối với anh T.

- Về con chung: Giao cháu Tạ Gia H, sinh ngày 30/01/2017 cho chị D nuôi và ghi nhận chị D không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

- Về nợ chung: Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

[1]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Tạ Hữu T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt anh là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung:

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Quách Ngọc D và anh Tạ Hữu T cưới nhau vào năm 2016 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Hòa, huyện Bình Đại vào năm 2016 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh T được công nhận hợp pháp.

Nay chị D yêu cầu ly hôn, anh T không đồng ý vì anh xác định vẫn còn thương vợ, thương con. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trong đó có biên bản xác minh tại chính quyền địa phương cũng như lời khai của chị D và anh T đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh T chỉ lo ăn chơi, nhậu nhẹt, không lo cho gia đình dù nhiều lần chị D đã khuyên năn nhưng anh vẫn không sửa đổi mà tính nào tật nấy. Hơn nữa, Toà án đã tiến hành mời chị D và anh T để hoà giải, nhằm cho các bên có cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh T đã không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này. Hiện tại anh chị vẫn sống chung một nhà nhưng việc ai người đó làm không ai quan tâm ai.

Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa chị D và anh T đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của chị D và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị D là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D đối với anh T.

[3]. Về nuôi con chung: Trong quá trình sống chung giữa chị D và anh T có 01 con chung tên Tạ Gia H, sinh ngày 30/01/2017. Khi ly hôn chị D yêu cầu nuôi cháu Huy. Hội đồng xét xử xét thấy: Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Huy, xét thấy việc chị D nuôi con chung vẫn phát triển bình thường, hơn nữa anh T cũng đồng ý để chị nuôi con, sự thỏa thuận này cũng phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị D.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D nuôi con chung nhưng không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, nên được Hội đồng xét xử ghi nhận và không xét đến.

[5]. Về tài sản chung: Hai bên khai thống nhất không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[6]. Về nợ chung: Hai bên khai thống nhất không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[7]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại về quan điểm giải quyết vụ án: là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Quách Ngọc D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Quách Ngọc D đối với anh Tạ Hữu T.

Cho ly hôn giữa chị Quách Ngọc D và anh Tạ Hữu T.

Quan hệ hôn nhân giữa chị Quách Ngọc D và anh Tạ Hữu T chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung Tạ Gia H, sinh ngày 30/01/2017 cho chị Quách Ngọc D trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ghi nhận sự tự nguyện chị Quách Ngọc D nuôi con chung không yêu cầu anh Tạ Hữu T cấp dưỡng nuôi con.

Anh Tạ Hữu T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị Quách Ngọc D trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Tạ Hữu T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Hai bên khai không có, nên không xét đến

4. Về nợ chung: Hai bên khai không có, nên không xét đến.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Chị Quách Ngọc D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005808 ngày 19 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Như vậy, chị Quách Ngọc D đã nộp đủ án phí.

Chị Quách Ngọc D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Tạ Hữu T vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 29/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:106/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về