TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 105/2020/HSST NGÀY 11/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 107/2020/TLST-HS ngày 23tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Hữu G( Tên gọi khác Nguyễn Hữu H), Sinh năm: 1987; Tại Thanh Hóa. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: T, phường B, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 6/12; Con ông Nguyễn Hữu S (đã chết); và bà Hồ Thị Xn; Vợ, con: Chưa; Tiền án:
- Ngày 21/01/2008 bị TAND thị xã Sầm Sơn nay là thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản”. Bị cáo chưa chấp hành phần bồi thường dân sự
- Ngày 20/4/2016 bị TAND thị xã Sầm Sơn nay là thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 36 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” . Áp dụng tình tiết tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 điều 48 Bộ luật Hình sự 1999. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/5/2018.
Tiền sự: Không. Nhân thân: - Ngày 17/12/2009 bị TAND thị xã Sầm Sơn nay là thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phí ngày 19/4/2010. Bị caó bị tạm giữ ngày 24/12/2019 đến ngày 27/12/2019 chuyển tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 24/12/2019, tổ công tác Công an phường Đ, thành phố T tuần tra tại khu vực chợ Đ, phường Đ, phát hiện thấy 02 nam thanh niên có biểu hiện khả nghi liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra, thì một thanh niên bỏ chạy, nam thanh niên còn lại khai nhận tên Nguyễn Hữu G, sinh năm 1987 trú tại số T, phường B, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Tại chổ Nguyễn Hữu G tự giác giao nộp 01 túi nilon bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và khai nhận đó là ma túy đá G mua từ tiền của nam thanh niên không biết tên tuổi đã bỏ chạy. Tổ Công tác lập biên bản sự việc và thu giữ tang vật, đồng thời chuyển vụ việc tới cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa.
Tang vật thu giữ:
- 01 túi nilon màu trắng, viền xanh, kích thước ( 2 x 2)cm bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng.
- 01 xe mô tô hãng Yamaha nhãn hiệu Sirius màu đỏ, BKS 90F9 – 4981 đã qua sử dụng.
Tại Kết luận giám định số 323/PC09 ngày 27 tháng 12 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong giử giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,279 gam, loại Methamphetamin.
Nguyễn Hữu G khai số ma túy G mua ở D, phường Đ, thành phố T .Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa đã xác minh ngôi nhà cửa sắt màu xanh, bờ sông L là D, phường Đ, thành phố T là do Nguyễn Văn Q, sinh 1978 thuê của anh Đỗ Xuân V. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa đã tiến hành ghi lời khai của Nguyễn Văn Q, Q khẳng định từ 12giờ – 14giờ ngày 24/12/2019 Q ở nhà nghỉ trưa không gặp ai và chỉ có một mình Q ở trong ngồi nhà này. Q cũng không biết ai là Nguyễn Hữu G hay Nguyễn Hữu H. Q không mua bán ma túy cho ai và cung không thấy ai mua bán ma túy. Do khi mua ma túy G không nhìn thấy người bên trong của ngồi nhà nên không biết ai do đó cơ quan CSĐT không có căn cứ để xử lý.
Cơ quan CSĐT đã tiến hành xác minh lý lịch nhân thân của nam thanh niên chở G đi mua ma túy, tuy nhiên do G gặp lần đầu không biết tên tuổi, địa chỉ của người này, khi bỏ chạy có để lại xe mô tô BKS 90 F9 -4981. Qua tra cứu chủ sở hữu của chiếc xe mô tô BKS 90F9 – 4981 là anh Trần Khắc T, sinh 1986 trú tại xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam. Tiến hành ghi lời khai anh T, anh T khai nhận anh là chủ sở hữu của chiếc xe có BKS 90F9 – 4981, loại xe của hãng Yamaha nhãn hiệu Sirius màu đỏ. Tháng 8/2013 anh đã bán chiếc xe trên cho một người tên T2 quê Thanh Hóa, anh không biết địa chỉ, họ tên cụ thể của anh T2. Tiến hành cho Nguyễn Hữu G nhận dạng. G không nhận dạng được người thanh niên đã bỏ chạy. Do đó cơ quan CSĐT tiếp tục quy trữ chiếc xe để điều xác minh xử lý sau.
Tại bản cáo trạng số 104/CT-VKS-TPTH ngày 19/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá truy tố Nguyễn Hữu G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của BLHS năm 2015 sửa đổi năm2017.
Tại phiên tòa, trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; Điều 38 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017, phạt bị cáo Nguyến Hữu G ( H) từ 05( Năm ) năm 06 tháng tù đến 06 ( Sáu) năm tù.
Về vật chứng đề nghị áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định. Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng. Tại phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên; Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa, một lần nữa bị cáo Nguyễn Hữu G (H) thừa nhận: Trưa ngày 24/12/2019, G đi cùng một nam thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ đi xe mô tô BKS 90 F9 – 4981 đến nhà gần bờ sông L người thanh niên đưa cho G 200.000 đồng nhờ mua ma túy, G cầm tiền đi đến trước cửa ngôi nhà gõ cửa và đưa vào bên trong qua khe cửa 200.000 đồng. Người bên trong nhà rút tiền rồi đưa ra 01 gói ma túy đá, G không biết người bên trong là ai, nam hay nữ. Sau khi mua được gói ma túy G cầm đi ra chổ nam thanh niên đứng và lên xe đi ra khu vực rau củ quả chợ Đ, phường Đ, thành phố Thanh Hóa thì bị Công an đến kiểm tra. Khi Công an kiểm tra thì nam thanh niên bỏ chạy để lại xe mô tô và G. Biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật nên G tự giác giao nộp gói ma túy đang cất giấu trong người cho lực lượng Công an. Gói ma túy qua giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,279 gam, loại Methamphetamin.
Tuy số ma túy bị cáo tàng trữ có khối lượng 0,279 gam Methamphetamin nhưng tại bản án số 21 ngày 20/4/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Sầm Sơn bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội, vì vậy lần phạm tội này bị cáo phạm tội tái phạm nguy hiểm đây là tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Hữu G ( H) có đủ dấu hiệu cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017.
[3]. Về tính chất vụ án: Tệ nạn và tội phạm về ma túy là hiểm họa cho toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến kinh tế, đến sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác, là tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[4]. Về nhân thân và trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo có quá trình nhân thân xấu đã bị xét xử nhiều lần. Như vậy bị cáo đã bị các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần nhưng bị cáo vẫn không chịu tỉnh ngộ để lao động, làm ăn chính đáng mà vẫn nghiện hút ma túy và tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện rõ sự xem thường pháp luật. Với tính chất, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, việc cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5]. Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là gam Methamphetamine hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS nên tịch thu tiêu huỷ.
Đối với chiếc xe mô tô BKS 90 F9 -4981 của Nam thanh niên chở G đi mua ma túy. Qua tra cứu chủ sở hữu của chiếc xe mô tô BKS 90F9 – 4981 là anh Trần Khắc T, sinh 1986 trú tại xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam. Tiến hành ghi lời khai anh T, anh T khai nhận anh là chủ sở hữu của chiếc xe có BKS 90F9 – 4981, loại xe của hãng Yamaha nhãn hiệu Sirius màu đỏ. Tháng 8/2013 anh đã bán chiếc xe trên cho một người tên T2 quê Thanh Hóa, anh không biết địa chỉ, họ tên cụ thể của anh T2. Tiến hành cho Nguyễn Hữu G nhận dạng. G không nhận dạng được người thanh niên đã bỏ chạy. Do đó cơ quan CSĐT tiếp tục quy trữ chiếc xe để điều xác minh xử lý sau.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017. Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu G (Nguyễn Hữu H) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Nguyễn Hữu G ( H) 05 (Năm) năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 24/12/2019.
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,216 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì được đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. (Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 102/THA ngày 27/03/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa).
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 105/2020/HSST ngày 11/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 105/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về