Bản án 105/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 105/2020/HS-ST NGÀY 05/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05/6/2020, Trụ sở Tòa án nhân dân, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 104/2020/HSST ngày 19 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh C; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1984. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và ở: X, Sơn Tây, TP Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1955; Con bà: Nguyễn Thị T1, sinh năm 1958. Gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Vợ : Vũ Thị H, sinh năm 1987; có 01 con sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 12/01/2006, công an quận Cầu Giấy, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích.

- Ngày 27/3/2008, công an quận Cầu Giấy, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

- Bản án số 29 ngày 10/6/2008 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (cũ) xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bản án số 52 ngày 16/6/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn Tây, tỉnh Hà Tây (cũ) xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của hai bản án là 42 tháng tù. Đã chấp hành xong hình phạt, ra trại ngày 14/2/2011. Nộp án phí ngày 3/9/2008 và 4/2/2010 (Đã được xóa án tích).

Danh bản và chỉ bản số 246 do Công an quận Bắc Từ Liêm lập ngày 02/1/2020.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2020 tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội.; Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng từ 06/3/2020, C đến công trường khu đô thị Ciputra, Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm, Hà Nội để tìm việc làm. Do bản thân nghiện ma túy nên khi vào công trường, C hỏi thăm và biết trong khu vực công trường có người bán ma túy. Khoảng 13 giờ ngày 09/3/2020, C đi lang thang tìm việc trong công trường IA20 thuộc khu Ciputra thì gặp một người đàn ông đi bộ có biểu hiện sử dụng ma túy. C hỏi người đàn ông có bán ma túy không thì người này nói có. Lúc này, C có 1.000.000 đồng đưa cho người đàn ông và được nhận lại 01 chiếc khẩu trang màu xanh chấm bi bên trong chứa 15 gói nhỏ ma túy (gồm 5 đoạn ống nhựa hàn kín 2 đầu và 10 gói giấy bạc). C cất giấu ma túy mua được trong túi quần. Ngày 10/3/2020, C đã sử dụng 01 gói. Đến khoảng 14 giờ ngày 10/3/2020, C đang lang thang trong công trường tìm chỗ sử dụng ma túy thì bị tổ công tác công an phường Đông Ngạc bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Minh C gồm:

- 05 đoạn ống hút hàn kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng;

- 09 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng;

- 01 khẩu trang màu xanh dương chấm bi đen.

Ngày 12/3/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định số 235 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội giám định chất ma túy thu giữ của Nguyễn Minh C.

Kết luận giám định số 2120/KLGĐ – PC09 ngày 18/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

+ Chất bột màu trắng bên trong 05 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng là 0,164gam + Chất bột trắng bên trong 09 gói giấy đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,354gam.

Ngày 11/3/2020, cơ quan điều tra đã dẫn giải Nguyễn Minh C chỉ địa điểm mua ma túy ở khu vực bãi đất trống trong công trường IA20 trong khu Ciputra thuộc địa phận tổ dân phố Nhật Tảo 4, Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm, Hà Nội nhưng không phát hiện được đối tượng bán ma túy cho C.

Tại bản cáo trạng số 121/CT-VKS ngày 18/5/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Minh C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo. Miễn hình phat bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, rõ ràng, phù hợp với quy định của pháp luật; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những căn cứ xác định tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, vật chứng được thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 11/3/2020, tại khu vực công trường khu đô thị Ciputra thuộc TDP Nhật Tảo 4, Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Minh C đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,518g ma túy hêrôin thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của bị cáo như trên đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách quản lý, kiểm soát ma túy và các chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ đối với con người, không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, ma tuý còn làm tha hoá đạo đức, huỷ hoại sức khoẻ, nòi giống của người sử dụng nó, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nguy hiểm và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nguy hiểm khác. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm minh cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và làm bài học ngăn ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xét xử nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà tiếp tục phạm tội mới. Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo bởi tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Minh C và Giám định viên là chất cấm cần tịch thu tiêu hủy;

+ 01 khẩu trang màu xanh chấm bi đen không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, túy.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma 2. Áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh C 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/3/2020.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Minh C và Giám định viên.

+ 01 khẩu trang màu xanh chấm bi đen.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng số 161/20 ngày 21/5/2020 giữa Chi cục Thi hành án quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội và Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội).

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Khoản 3 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 23; Khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về