Bản án 105/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 105/2019/HS-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số100/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đào Xuân C, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1983 tại Uông Bí, Quảng Ninh. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 1, khu N, phường N, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Xuân L và bà Phạm Thị C; có vợ là Ngô Thị T và có 03 con sinh (con lớn sinh năm 2006 con nhỏ sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: không; nhân thân: năm 2009 cai nghiện ma túy bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện Vũ Oai- Hoành Bồ- Quảng Ninh, đến ngày 16/4/2011 hoàn thành chương trình cai nghiện, trở về địa phương. Bị tạm giữ từ ngày 06-6-2019 và tạm giam ngày 12-6-2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đào Xuân L

Nơi cư trú: Tổ 1, khu N, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Quang N, ông Đào Thanh C; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 06/6/2019, trong khi đang ở nhà thì Đào Xuân C nảy sinh ý định muốn mua ma túy về sử dụng nên đã dùng điện điện thoại Iphone 5 màu trắng gắn sim số 0353.930.922 của C để gọi điện cho người đàn ông trong danh bạ có tên là “Năng N” hỏi mua ma túy “đá”, người này đồng ý. Sau đó, C cầm theo 330.000 đồng và mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS 29P6-9261 của bố là ông Đào Xuân L, điều khiển từ nhà ở tổ 1, khu N, phường N, thành phố U đến nhà N ở khu vực ngõ đường tàu phường T, thành phố U. Khi đến nhà N, thì C đưa cho N 200.000 đồng, N đưa cho C 1 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (1,5x2)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Kiểm tra đúng là ma túy cần mua, C cất ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà.

Khoảng 10 giờ 45 cùng ngày, khi C đi khỏi nhà N được khoảng 50m, thì bị tổ công tác công an phường T, thành phố U yêu cầu dừng xe kiểm tra. Sợ bị phát hiện, C đã thả túi ma túy đang cầm trong lòng bàn tay trái xuống nền đường sát vị trí C đang đỗ xe khoảng 50cm. Tuy nhiên, lực lượng Công an đã phát hiện, bắt quả tang Đào Xuân C có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy và thu giữ của C 1 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (1,5x2)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, số tiền 130.000 đồng, 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng gắn sim số 0353.930.922, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS 29P6-9261.

Tại bản Kết luận giám định số 474/GĐMT ngày 10/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật thu giữ của C gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,375 gam.

Tại bản Cáo trạng số 105/CT-VKSUB ngày 22-8-2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố Đào Xuân C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung vụ án đã nêu. Bị cáo khẳng định đã dùng chiếc điện thoại Iphone 5 đã bị thu giữ gọi cho người có tên trong danh bạ điện thoại là “Năng Nội” để hỏi mua ma túy “đá”. Bị cáo thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo về tội „Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan-ông Đào Xuân L trình bày không biết việc bị cáo sử dụng xe mô tô nhãn Yamaha Jupiter BKS 29P6-9261 để đi mua ma túy về sử dụng. Qúa trình điều tra, ông đã nhận lại tài sản này và không có yêu cầu gì thêm.

Người chứng kiến ông Nguyễn Quang N và ông Đoàn Thanh C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện trong hồ sơ về thời gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án, đối tượng liên quan và vị trí vật chứng thu giữ của vụ án (bút lục 51-62).

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đào Xuân C với mức hình phạt từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tình từ ngày bắt 06/6/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì số 474/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng ma túy thu giữ của bị cáo, được hoàn lại sau giám định

+ Tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Iphone 5 do có liên quan đến việc mua bán túy để tàng trữ sử dụng của bị cáo.

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 sim số 0353.930.922 do không còn giá trị sử dụng.

+ Trả lại bị cáo 130.000 đồng là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Viện kiểm sát; Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

2.1 Về tội danh:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của những người chứng kiến và phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ 45 phút ngày 06/6/2019, tại khu vực tổ 3, khu 1, phường T, thành phố U. Đào Xuân C đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine, khối lượng là 0,375 gam (không phẩy ba trăm bảy mươi năm gam) mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an thành phố Uông Bí bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện lỗi cố ý, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, truy tố bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

2.2 Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thấy rằng bị cáo nhận thức được việc tàng trữ ma túy là trái với quy định pháp luật, trước khi phạm tội bị cáo đã có thời gian phải đi cai nghiện ma túy bắt buộc, được giáo dục về tác hại của ma túy, sự nghiêm khắc của pháp luật đối với những hành vi liên quan đến ma túy nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, cố ý phạm tội. Vì vậy, cần phải có hình phạt phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục riêng cũng như để tăng cường phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo mua ma túy với mục đích sử dụng, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

- 01 phong bì niêm phong số 474/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng ma túy thu giữ được của bị cáo, được hoàn lại sau giám định thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận đã sử dụng chiếc điện thoại này liên lạc, giao dịch với Năng để mua được số ma túy đã bị thu giữ nhằm mục đích tàng trữ, sử dụng. Vì vậy, xác định vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 sim số điện thoại 0353.930.922, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy;

 - Số tiền 130.000đồng là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyển lợi nghĩa vụ liên quan, có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đào Xuân C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Đào Xuân C 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 06/6/2019.

2. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

Áp dụng: khoản 1; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 474/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Quảng Ninh.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 sim số điện thoại 0353.930.922.

- Trả lại bị cáo số tiền 130.000đồng (một trăm ba mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng, đặc điểm của vật chứng được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng và bảng thống kê tiền tang vật ngày 27 tháng 8 năm 2019 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phíCăn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Đào Xuân C phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về