Bản án 105/2019/HSST ngày 14/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 105/2019/HSST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Cm Thị M; (Tên gọi khác: Bạc Thị M); sinh ngày 24 tháng 4 năm: 1986 tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Tổ Z, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Tạm trú: Tổ X, phường Y, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Giới tính: Nữ, Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Cầm Văn P; Con bà: Lù Thị H (đã chết); chồng là: Hoàng Viết Đ (đã ly hôn); Bị cáo: có 03 con (lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2019); Đều trú tại: Tổ Z, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La;

Tiền án, tiền sự: không; Về Nhân Thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 28/2011/HSST ngày 25/11/2011, Tòa án nhân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, xử phạt bị cáo Cầm Thị M 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú do đang nuôi con nhỏ (03 tháng tuổi). Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lò Văn Phanh - Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Hi 08 giờ 20 phút ngày 26/3/2019 tổ công tác Công an thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực phường Y, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La kiểm tra hành chính nơi ở trọ của Cầm Thị M tại Tổ X, phường Y, thành phố Sơn La phát hiện, bắt quả tang Cầm Thị M đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Cầm Thị M và thu giữ 03 viên nén màu hồng (M khai là hồng phiến).

Cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở trọ của Cầm Thị M tại Tổ X, phường Y, thành phố Sơn La thu giữ tại giường ngủ 01 gói nilon bên trong có chứa 18 viên nén màu hồng (M khai là hồng phiến); thu trên bàn uống nước 59 gói nilon (trong đó có 12 gói nilon màu hồng và 47 gói nilon màu xanh) bên trong có chứa 11.210 viên nén màu hồng (M khai là hồng phiến) và 01 điện thoại di động.

Hi 16 giờ ngày 26/3/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Sơn La thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định:

- 03 viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang có tổng khối lượng 0,29 gam, lấy toàn bộ 03 viên làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu M1.

- 01 gói nilon bên trong chứa 18 viên nén màu hồng có khối lượng 1,85 gam, lấy 05 viên có khối lượng 0,52 gam làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu M2.

- 59 gói nilon (11.210 viên nén màu hồng) có tổng khối lượng 1.105,87 gam, trích mỗi gói 05 viên nén màu hồng (295 viên) có tổng khối lượng 30,68 gam làm mẫu trưng cầu giám định, ký hiệu M3 đến M61.

Kết luận giám định số 690/KLMT ngày 29/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 đến M61 đều là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 31,49 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1.108,01 gam; loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo Cầm Thị M khai nhận.

Cuối năm 2017 M đi bán hàng nông sản tại chợ cửa khẩu Chiềng Khương, huyện Sông Mã. Tại đây, M gặp và quen một người đàn ông dân tộc Thái (M không biết tên). M và người đàn ông đó cho nhau số điện thoại để liên lạc. Sau đó người đàn ông đã nhiều lần gọi điện đặt vấn đề với M về việc mua ma túy về bán kiếm lời nhưng vì không biết chỗ tiêu thụ nên M chưa đồng ý. Đến ngày 24/3/2019 người đàn ông gọi điện cho M nói có hồng phiến bán với giá 46.000.000 đồng, bảo M mua về bán. Do chưa có tiền nên M hẹn sẽ gọi lại sau. Ngày 25/3/2019 M gọi điện cho người đàn ông thỏa thuận sẽ trả trước 6.000.000 đồng, số tiền còn lại khi nào bán được ma túy sẽ trả sau. Người đàn ông đồng ý, hẹn giao ma túy tại khu vực bản Mỏ, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã. Khoảng 19 giờ cùng ngày M ra cửa hàng cho thuê xe ở tổ 8 phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La (không nhớ tên cửa hàng) thuê xe mô tô rồi điều khiển xe đi đến điểm hẹn. Khi gặp nhau người đàn ông đưa cho M một túi nilon bên trong có chứa ma túy (M không kiểm tra và không hỏi số lượng bao nhiêu). M đưa cho người đàn ông 6.000.000 đồng và nói không biết chỗ bán ma túy. Người đàn ông cho M số điện thoại người mua ma túy (gửi tin nhắn) và bảo M bán ma túy với giá 96.000.000 đồng. M cất giấu gói ma túy vừa mua được vào túi áo khoác đang mặc và điều khiển xe đi về chỗ trọ. Đến khoảng 4 giờ ngày 26/3/2019 M lấy túi nilon chứa ma túy ra kiểm tra, sau đó gọi điện cho người mua ma túy theo số điện thoại mà người đàn ông cho, nghe máy là một người phụ nữ tự giới thiệu tên Mai. M nói có ma túy cần bán, hỏi Mai có mua không.

Mai đồng ý và hẹn gặp nhau tại phòng trọ của M. Khoảng 7 giờ cùng ngày Mai đến phòng trọ, M lấy 01 gói ni lon chứa 21 viên hồng phiến ra cho Mai kiểm tra (quá trình kiểm tra Mai làm rơi 03 viên hồng phiến xuống nền nhà), số ma túy (18 viên còn lại) M cất giấu tại giường ngủ của M, số 59 gói nilon chứa 11.210 viên hồng phiến M để trên bàn uống nước. Kiểm tra ma túy xong Mai và M thỏa thuận giá bán toàn bộ số Hồng phiến với giá 96.000.000 đồng. Do Mai không mang tiền theo, Mai đi ra xe ô tô lấy tiền vào trả cho M. Khi Mai ra khỏi phòng trọ của M thì tổ công tác đến kiểm tra hành chính, quá trình kiểm tra tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Về nguồn gốc 60 gói nilon (11.321 viên) Methamphetamine có khối lượng 1.108,01 gam Cầm Thị M khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái (không biết tên, địa chỉ) để bán cho người phụ nữ tên Mai (không rõ họ tên, địa chỉ). Do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để xác minh, điều tra.

Do có hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 76/VKS-P1 ngày 20/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố ra trước Toà án nhân dân tỉnh Sơn La để xét xử bị cáo Cầm Thị M về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

* Tại phiên tòa, kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Cầm Thị M về tội danh, Điều luật áp dụng như cáo trạng đã quy kết và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo Cầm Thị M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Cầm Thị M 20 (hai mươi) năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng và án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Quan điểm của luật sư Lò Văn Phanh bào chữa cho bị cáo Cầm Thị M nhất trí với tội danh, Điều luật mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, sau khi bị bắt và trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là phụ nữ dân tộc thái, trình độ văn hóa thấp nên am hiểu pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình bị cáo hết sức khó khăn, gia đình bị cáo được ủy ban nhân dân phường C, thành phố Sơn La chứng nhận hộ nghèo, chồng ly hôn một mình nuôi 03 con nhỏ, khi phạm tội bị cáo đang mang thai và vừa sinh con được 03 tháng, bị cáo đi cải tạo các cháu không nơi nương tựa là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, n khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo ở mức thấp nhất.

* Tại phiên tòa, bị cáo Cầm Thị M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã quy kết và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hi 8 giờ 30 phút ngày 26/3/2019 Cầm Thị M bị bắt quả tang tại nhà trọ của M thuộc Tổ X, phường Y, thành phố Sơn La khi đang có hành vi tàng trữ 11.231 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 1.108,01 gam mục đích để bán kiếm lời.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng M bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Cầm Thị M và thu giữ 03 viên nén màu hồng (M khai là hồng phiến) lập hồi 08 giờ 30 phút ngày 26/03/2018 của tổ công tác Công an thành phố Sơn La tại Tổ X, phường Y, thành phố Sơn La.

- Biên bản khám xét khẩn cấp nơi ở trọ của Cầm Thị M tại Tổ 8, phường Y, thành phố Sơn La thu giữ (tại giường ngủ) 01 gói nilon bên trong có chứa 18 viên nén màu hồng (M khai là hồng phiến); thu trên bàn uống nước 59 gói nilon (trong đó có 12 gói nilon màu hồng và 47 gói nilon màu xanh) bên trong có chứa 11.210 viên nén màu hồng (M khai là hồng phiến) và 01 điện thoại di động.

- Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định lập hồi 16 giờ ngày 26/3/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Sơn La.

- Kết luận giám định số 690/KLMT ngày 29/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 đến M61 đều là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 31,49 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1.108,01 gam; loại Methamphetamin.

Từ các căn cứ như đã nêu trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Cầm Thị M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Cầm Thị M đã có hành vi tàng trữ 11.231 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 1.108,01 gam mục đích để bán kiếm lời. Hành vi trên đây của bị can Cầm Thị M đã phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy, có tình tiết định khung “Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 100 gam trở lên”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù hai mươi lăm, tù chung thân hoặc tử hình.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Cầm Thị M phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo mua bán ma túy với số lượng 1.108,01 gam Methamphetamin, gây nguy hại lớn cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, tiền chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đi ngược lại với chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước về đấu tranh phòng, chống ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tai, tệ nạn và các tội phạm khác trong xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là đặc nghiêm trọng, nên không có căn cứ chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và Luật sư bào chữa cho bị cáo, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc mới đảm bảo biện pháp trừng trị riêng, răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 40 Bộ luật hình sự 2015 quy định: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi… khi phạm tội hoặc khi xét xử.

[5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Cầm Thị M không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; khi phạm tội bị cáo đang mang thai (hiện nay đang nuôi con nhỏ 03 tháng tuổi); bị cáo và con bị cáo mắc bệnh HIV/AIDS giai đoạn lâm sàng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, n khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, song xét thấy bị cáo hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền ) đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 1.076,52 gam Methamphetamine còn lại sau khi đã trích rút lấy mẫu giám định, xét thấy Methamphetamine là loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 chiếc điện thoại màu bạc nhãn hiệu PHILIPS của bị cáo dùng vào việc liên lạc mua bán trái phép chất ma túy, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cầm Thị M (Bạc Thị M) phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

1. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 40 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Cầm Thị M (Bạc Thị M) tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại thụ hình.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01(một) Hộp vật chứng còn nguyên niêm phong, một mặt hộp vật chứng có ghi dòng chữ: Vật chứng lưu kho vụ Cầm Thị M, sinh năm 1986. Tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 26/03/2019, tại tổ X phường Y, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La gồm: Mẫu lưu kho ký hiệu từ MC1 đến MC60 có tổng trọng lượng 1.076,52 gam; 01 phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 thùng bìa cát tông màu trắng; 01 mảnh nilon màu vàng có dòng chữ Bột đậu xanh uống liền Hòa Hưng (Kết luận giám định số 690 ngày 29.3.2019 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, thì mẫu gửi giám định từ M1 đến M61 đều là ma túy: Loại Methamphetamine).

Tại các mép giáp lai được dán giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có ghi dòng chữ Công an thành phố Sơn La - Cơ quan cảnh sát điều tra, cùng chữ ký dòng ghi rõ họ tên của các thành phần tham gia niêm phong; 01 (một) chiếc túi giấy màu đỏ có chữ Bảo Hưng bánh quy bơ Danish đã qua sử dụng, thu giữ của Cầm Thị M; 02 (hai) chiếc túi nilon (trong đó: 01 túi nilon màu xanh và 01 túi nilon màu trắng) đã qua sử dụng, thu giữ của Cầm Thị M.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu PHIPIPS màu đen (điện thoại không cảm ứng) có hai imei với 04 số cuối là 3715 và 4711, kèm 02 sim trong điện thoại, đã qua sử dụng (hai bên giao nhận không kiểm tra máy móc thiết bị bên trong của điện thoại, thu giữ của Cầm Thị M).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cầm Thị M.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2019/HSST ngày 14/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về