TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 105/2019/HS-PT NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 106/2019/TLPT- HS ngày 11 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Phạm Công T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Khánh Hòa.
Bị cáo có kháng cáo:
Phạm Công T; sinh ngày 29 tháng 01 năm 1992; tại N; nơi cư trú: Đội 4, thôn H, xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính:Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công H và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: chưa; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 29 tháng 5 năm 2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 10 phút ngày 05 tháng 12 năm 2018, Phạm Công T điều khiển xe mô tô BKS 37B2-242.22 của mình chở Trần Văn Đ phía sau đi từ xã L, huyện K đến xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa. Trên đường đi, T đeo một chiếc khẩu trang y tế có dây đeo nút thắt và cho Đ mượn một chiếc khẩu trang y tế khác để sử dụng.
Đến khoảng 17 giờ 20 phút cùng ngày, khi đi qua khu vực cầu tràn Liên Sang- Khánh Thượng thuộc thôn S, xã K, huyện K thì cả hai bị lực lượng công an xã K tiến hành kiểm tra và phát hiện bên trong 02 chiếc khẩu trang do T và Đ đang sử dụng đều có 01 túi ni lông được cuốn băng keo màu đen, bên trong có chứa tinh thể đá nghi là ma túy.
Tại cơ quan điều tra, T khai tinh thể đá màu trắng được đựng trong 02 túi ni lông cất giấu bên trong khẩu trang y tế mà T và Đ sử dụng là ma túy đá do T mua của một người không rõ lai lịch vào ngày 04 tháng 12 năm 2018 ở địa bàn thị trấn D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa để sử dụng. Khi cho Đ mượn khẩu trang đi trên đường thì T không nói cho Đ biết bên trong khẩu trang có cất giấu ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 38/GĐTP/2019 ngày 12 tháng 12 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: Tinh thể màu trắng trong 02 túi ni lông mà bị cáo T cất giấu trong 02 khẩu trang y tế có khối lượng 0,233 gam là ma túy tổng hợp (loại Methamphetamine).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2019/HS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phạm Công T.
Xử phạt bị cáo Phạm Công T 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo.
Ngày 11 tháng 6 năm 2019, bị cáo Phạm Công T có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Phạm Công T giữ nguyên kháng cáo được hưởng án treo; bị cáo bổ sung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cung cấp thêm tài liệu chứng minh có ông nội là Phạm Công U được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Công T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội. cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bị cáo cung cấp thêm tài liệu chứng minh có ông nội được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất nên đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. cấp sơ thẩm xử phạt Phạm Công T 01 (một) năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Công T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Kháng cáo của bị cáo Phạm Công T trong thời hạn quy định của pháp luật nên hợp lệ.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, Phạm Công T đã khai nhận những hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ cơ sở để kết luận: Ngày 05 tháng 12 năm 2018, tại khu vực thuộc thôn S, xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa, bị cáo Phạm Công T đã có hành vi tàng trữ 0,233g (không phẩy hai ba ba gam) ma túy tổng hợp (loại Methamphetamine). Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố để cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội.
[3] Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Công T cung cấp chứng cứ chứng minh có ông nội là Phạm Công U được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, nhận thấy cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Công T 01 (một) năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật nên Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Vì kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Phạm Công T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 343; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Công T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Công T.
- Xử phạt bị cáo Phạm Công T 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Phạm Công T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 06 tháng 9 năm 2019).
Bản án 105/2019/HS-PT ngày 06/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 105/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về