Bản án 104/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 09 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 92/2021/TLST- HS ngày 14 tháng 09 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 09 năm 2021 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN T - Sinh ngày 28 tháng 11 năm 1992 tại Đà Nẵng; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: tổ 95, phường HM, quận LC, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn A (s) và bà Nguyễn Thị X (c); có 01 con sinh năm 2015;

- Tiền án: chưa.

- Tiền sự: Ngày 17/04/2020, bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 12 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” tại quyết định số 44/QĐ-TA. (Chấp hành xong ngày 05/02/2021)

- Nhân thân:

+ Ngày 29/03/2012, bị UBND thành phố Đà Nẵng Quyết định tập trung vào Trung tâm Giáo dục- Dạy nghề 05-06 thành phố Đà Nẵng, thời hạn 03 tháng kể từ ngày 11/12/2012 tại Quyết định số 2366/QĐ-UBND (Chấp hành xong ngày 05/05/2012) + Ngày 12/08/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 15 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” tại quyết định số 31/2016/QĐ-TA. (Chấp hành xong ngày 05/02/2021) Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang ngày 02/06/2021, tạm giữ ngày 02/06/2021, tạm giam ngày 10/06/2021. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Vũ Hoàng V- Sinh năm: 1989; trú tại: tổ 82, phường HX, quận CL, thành phố Đà Nẵng. (có mặt)

2. Ông Vũ Đức B- Sinh năm: 1958; trú tại: tổ 82, phường HX, quận CL, thành phố Đà Nẵng. (có mặt)

- Người làm chứng:

1. Ông Bùi Hữu Th- sinh năm 1997: Địa chỉ: Tổ 57, phường AK, quận TK, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Công B1- sinh năm 1992: Địa chỉ: Tổ 29, phường AK, quận TK, thành phố Đà Nẵng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 02/6/2021, Nguyễn Văn T đang ở tại nhà K137/H15/10 đường TH, phường HM, quận LC, thành phố Đà Nẵng thì nhận được điện thoại của một nam thanh niên (chưa rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua nửa hộp năm ma túy đá (khoảng 2,5 gam), T đồng ý bán với giá 1.300.000 đồng và hẹn giao dịch tại trước cây xăng TL, địa chỉ số 95 đường TC, thành phố Đà Nẵng. Sau đó, T lấy gói ma túy đá cất giấu ở nhà từ trước, bỏ vào trong vỏ bao thuốc lá hiệu CRAVEN, kẹp gần tay lái rồi điều khiển xe mô tô BKS: 82B1-106.33 đến điểm hẹn để bán ma túy. Đến 14 giờ 15 phút cùng ngày, khi T đang đứng trước số 95 TC, phường AK, quận TK, thành phố Đà Nẵng để chờ bán ma túy cho người nam thanh niên thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê phát hiện bắt quả tang, thu giữ phía dưới đất ngay chỗ T dừng xe có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu CRAVEN bên trong có 01 gói nylong kích thước (04 x 07)cm chứa chất tinh thể màu trắng, được niêm phong, ký hiệu G1 và tang vật khác liên quan.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T tại địa chỉ K137/H15/10 TH, phường HM, quận LC, thành phố Đà Nẵng, Cơ quan điều tra thu giữ 01 cân điện tử màu trắng, không rõ nhãn hiệu.

* Bản Kết luận giám định số: 149/GĐ-MT ngày 09/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu G1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng tinh thể mẫu G1: 2,166 gam.

Kiểm tra điện thoại của Nguyễn Văn T, không thu giữ được thông tin liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Kết quả thử nước tiểu: Nguyễn Văn T âm tính với chất ma túy.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận nguồn gốc gói ma túy thu giữ do trước ngày bị bắt khoảng 01 tuần, Nguyễn Văn T đi đến kiệt đường NC, TP.Đà Nẵng (không rõ địa chỉ cụ thể) gặp và mua của người phụ nữ tên XA(chưa rõ nhân thân lai lịch) 01 gói ma túy đá với giá 4.000.000 đồng, sau đó T phân chia gói ma túy mua được thành 03 gói nhỏ, và đã bán 02 gói ma túy đá cho người thanh niên tên V (chưa rõ nhân thân lai lịch) với giá 4.000.000 đồng trong kiệt đường TH, TP.Đà Nẵng (không rõ địa chỉ cụ thể), còn lại 01 gói ma túy đá T đem đi bán bị bắt quả tang.

* Vật chứng tạm giữ:

- 01 gói nylong kích thước (4x7)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng được niêm phong theo quy định, ký hiệu là G1; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu CRAVEN.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, số IMEI: 356202094948512, gắn sim số: 0782944596.

- Số tiền 1.050.000 đồng.

- 01 cân điện tử màu trắng, không rõ nhãn hiệu.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS: 82B1-106.33, số khung: 409Y148051, số máy: 5C64148059. Qua xác minh, xe do anh Vũ Hoàng V đứng tên trong giấy đăng ký xe. Anh V để xe mô tô trên ở nhà, vào khoảng cuối tháng 5 năm 2021 em ruột V là anh Vũ Hoàng H cho Nguyễn Văn T mượn xe để làm phương tiện đi lại, H không biết T sử dụng xe làm phương tiện đi bán ma túy.

Nhng vật chứng và tài sản trên chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê bảo quản chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 14 tháng 09 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố: Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Văn T từ 03 năm đến 04 năm tù.

Phạt bổ sung số tiền 5.000.000 đồng đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy: Toàn bộ mẫu hoàn trả sau giám định theo kết luận giám định số: 149/GĐ-MT ngày 09/06/2021 đựng trong phong bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu CRAVEN; 01 thẻ sim số 0782944596 - Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, số IMEI: 356202094948512 và 01 cân điện tử màu trắng không rõ nhãn hiệu thu giữ của Nguyễn Văn T.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.050.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn T để đảm bảo thi hành án.

- Tuyên trả cho anh Vũ Hoàng V 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS: 82B1-106.33, số khung: 409Y148051, số máy: 5C64148059.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố và không có ý kiến tranh luận gì với phần luật tội của Kiểm sát viên. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cứu xét hoàn cảnh, giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Vũ Hoàng V, ông Vũ Đức B đề nghị HĐXX tuyên trả cho anh Vũ Hoàng V xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS: 82B1-106.33, số khung: 409Y148051, số máy: 5C64148059.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 02/06/2021 đối với Nguyễn Văn T; kết luận giám định số 149/GĐ-MT ngày 09/06/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Đà Nẵng. Hội đồng xét xử có đủ cở sở kết luận: Vào lúc 14 giờ 15 phút ngày 02/6/2021 tại trước nhà số 95 TC, phường AK, quận TK, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Văn T có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 2,166 gam để chờ bán cho 01 người thanh niên (chưa xác định được lai lịch) để thu lợi bất chính nhưng chưa kịp bán thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê phát hiện bắt quả tang.

Xét bị cáo Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 2,166 gam chất ma túy loại Methamphetamine với mục đích bán lại cho người khác để thu lợi bất chính nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 14 tháng 09 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Đây là vụ án nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma tuý gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, là tệ nạn xã hội và là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật vẫn thực hiện hành vi mua bán trái phép ma túy để thu lợi bất chính.

Nhân thân của bị cáo xấu, nhiều lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Có 01 tiền sự ngày 17/04/2020, bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 12 tháng tại quyết định số 44/QĐ-TA nên đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để cân nhắc giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê đề nghị là phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do vậy, cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ mẫu hoàn trả sau giám định theo theo kết luận giám định số: 149/GĐ-MT ngày 09/06/2021 đựng trong phong bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu CRAVEN; 01 thẻ sim số 0782944596 thì cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, số IMEI: 356202094948512 và 01 cân điện tử màu trắng không rõ nhãn hiệu thu giữ của Nguyễn Văn T có liên quan đến hành vi phạm tội thì cần tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 1.050.000 đồng thu giữ của Nguyễn Văn T không liên quan đến việc phạm tội thì cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS: 82B1- 106.33, số khung: 409Y148051, số máy: 5C64148059 thuộc sở hữu của anh Vũ Hoàng V, do anh V để xe mô tô trên ở nhà, vào khoảng cuối tháng 5 năm 2021 ông Vũ Đức B là cha của V cho Nguyễn Văn T mượn xe để làm phương tiện đi lại (T là bạn của Vũ Hoàng H cũng là con trai ông B), ông B và H không biết T sử dụng xe làm phương tiện đi bán ma túy nên cần tuyên trả xe mô tô cho anh V là phù hợp.

[8] Đối với lời khai của T về việc bán ma túy cho người tên V thì hiện nay không xác định được nhân thân, lai lịch người tên V này, không thu giữ được ma túy, chỉ có duy nhất lời khai của T, ngoài ra không có căn cứ khác để chứng minh nên không đủ cơ sở để xử lý T trong lần mua bán này, khi nào xác định được V, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

Đối với người phụ nữ tên XA bán ma túy cho Nguyễn Văn T và đối tượng mua ma túy của T đều chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[9] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý"

 - Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02.06.2021.

* Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ Toàn bộ mẫu hoàn trả sau giám định theo kết luận giám định số: 149/GĐ-MT ngày 09/06/2021 đựng trong phong bì niêm phong có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng;

+ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu CRAVEN

+ 01 thẻ sim số 0782944596.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, số IMEI: 356202094948512;

+ 01 cân điện tử màu trắng, không rõ số hiệu.

- Tuyên trả cho anh Vũ Hoàng V 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS: 82B1-106.33, số khung: 409Y148051, số máy: 5C64148059.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.050.000đ (Một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ của Nguyễn Văn T để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ số vật chứng trên thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/09/2021, hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê đang quản lý).

2. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về