Bản án 104/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 104/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 110/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Thị T, sinh ngày 05 tháng 8 năm 1992 tại Hòa Bình. Nơi cư trú: Tổ dân phố S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T1 (đã chết) và bà Đỗ Thị H; bị cáo có chồng là Nguyễn Văn T2 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 23/6/2020; tạm giam ngày 26/6/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa tháng 5/2020, T thuê nhà số 184 đường Ngô Quyền, phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng với mục đích kinh doanh cà phê và bán dâm. Đến đầu tháng 6/2020, T gặp và thỏa thuận với Mạc Thị Ngọc, sinh năm 1981; nơi cư trú: Xã Châu Hội, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An và Hương (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) bán dâm cho khách tại quán của T. Mỗi lần bán dâm, khách sẽ trả 200.000 đồng, T hưởng lợi 100.000 đồng, còn 100.000 đồng trả cho người bán dâm là Ngọc hoặc Hương. Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 23/6/2020, Đỗ Văn Thắng, sinh năm 1975; nơi cư trú: Số 7/35 đường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng và Đặng Anh Văn, sinh năm 1979; nơi cư trú: Số 47/16/37 đường An Đà, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đến quán của T hỏi mua dâm. T bố trí cho Ngọc bán dâm cho Văn trong phòng nghỉ tầng 01 của quán còn T và Thắng ngồi uống nước nói chuyện để Thắng chờ mua dâm. Đến 21 giờ 45 phút cùng ngày, lực lượng công an bắt quả tang thu giữ tại hiện trường 01 bao cao su đã qua sử dụng, thu trong ví của Ngọc số tiền 200.000 đồng là tiền Văn trả cho Ngọc để mua dâm.

Về vật chứng: Số tiền 200.000 đồng và 01 bao cao su đã qua sử dụng chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Tại Bản Cáo trạng số 95/CT-VKSNQ ngày 09/9/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Thị T về tội Chứa mại dâm theo khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Thị T khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên tại phiên toà, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Thị T với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội Chứa mại dâm. Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 bao cao su đã qua sử dụng; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng thu giữ của Mạc Thị Ngọc. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Thị T có hành vi sử dụng căn nhà số 184 đường Ngô Quyền, phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thuộc quyền quản lý của mình để làm nơi hoạt động mua bán dâm. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Chứa mại dâm được quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ ảnh hưởng đến nếp sống lành mạnh, văn minh mà còn xâm phạm trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Về tình tiết tăng nặng:

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ:

[6] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội Chứa mại dâm nhưng bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không cần thiết bắt bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 327 Bộ luật Hình sự.

- Về việc xử lý vật chứng:

[8] Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 bao cao su đã qua sử dụng; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng thu giữ của Mạc Thị Ngọc là tiền do bán dâm mà có.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với hành vi mua, bán dâm của Đặng Anh Văn và Mạc Thị Ngọc, Cơ quan Công an đã xử phạt vi phạm hành chính.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Thị T 15 (mười lăm) tháng tù về tội Chứa mại dâm. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 23/6/2020.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 bao cao su đã qua sử dụng; tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng theo biên bản giao nhận vật chứng và biên lai thu tiền số 3383 ngày 10/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Phạm Thị T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phạm Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:104/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về