Bản án 104/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 104/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 114/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn B, sinh năm 1980 tại Trà Vinh; nơi cư trú khóm 01, phường 01, thị xã D, tỉnh Trà Vinh; chổ ở hiện nay khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1956; bị cáo có vợ là Trần Thị Kim L, sinh năm 1987 và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 1998 và nhỏ nhất sinh năm 2000.

Tiền án 01: Ngày 18/8/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Đ (nay là Thành phố Đ), tỉnh Bình Phước xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 89/2017/HSST ngày 18/8/2017).

Về nhân thân:

Ngày 04/02/1999, bị Tòa án nhân dân huyện D (nay là thị xã D), tỉnh Trà Vinh xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội trộm cắp tài sản (Tại bản án số 05.HSST ngày 04/02/1999).

Ngày 06/4/2000, bị Tòa án nhân dân huyện D (nay là thị xã D), tỉnh Trà Vinh xử phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội trộm cắp tài sản và 06 (sáu) tháng tù về tội “trốn khỏi nơi giam” (Tại bản án số 05/HSST ngày 06/4/2000).

Ngày 13/5/2005, bị Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội trộm cắp tài sản (Tại bản án số 37/2005/HSST ngày 13/5/2005).

Ngày 14/4/2008, bị Tòa án nhân dân T, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội trộm cắp tài sản (Tại bản án số 86/2008/HSST ngày 14/4/2008); tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/5/2019 cho đến nay, “bị cáo có mặt”.

Ni bị hại:

Anh Vũ Ngọc P, sinh năm 1979; nơi cư trú xóm 4, xã T, huyện K, tỉnh Ninh Bình; chổ ở hiện nay khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương “vắng mặt”.

Ni chứng kiến:

Anh Trần Công K, sinh năm 1960; nơi cư trú khu phố 02, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 45 phút ngày 17/5/2019 Nguyễn Văn B khi đi ngang qua Văn phòng giao dịch truyền hình cáp SCTV chi nhánh tỉnh Bình Phước, thuộc khu phố 02, phường T, thành phố Đ quan sát không có ai ở trong văn phòng nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này B đi vào phía trong văn phòng lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6+ và 01 cục sạc điện thoại của anh Vũ Ngọc P đang cắm ở góc bên trái của phòng làm việc thì bị anh P bắt quả tang trên tay của B đang cầm 01 điện thoại và 01 cục sạc nên đã bắt giữ giao cho Công an phường T, thành phố Đ lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại kết luận định giá tài sản số 84/KLĐG ngày 21/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Đ kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 + màu xanh đen đã qua sử dụng trị giá 2.500.000 đồng; 01 cục sạc điện thoại di động màu trắng hiệu Samsung Galaxy đã qua sử dụng trị giá 50.000 đồng. Tổng trị giá 2.550.000 đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6+ màu đen và 01 cục sạc điện thoại; 01 thùng giấy kích thước (30 x 22 x 23)cm niêm phong đồ vật bên trong có 01 áo sơ mi dài tay, nền màu trắng, sọc ca rô xanh trên cổ áo có chữ “SuboyAN made in VietNam XXL”, 01 quần short màu rằn ri xanh xám đen; 01 đĩa VCD có chứa nội dung video ghi lại hình ảnh Nguyễn Văn B thực hiện hành vi phạm tội.

Ngày 01/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Vũ Ngọc P 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6+ màu xanh đen và 01 cục sạc điện thoại.

Tại Bản cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 12/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy số vật chứng gồm 01 thùng giấy kích thước (30 x 22 x 23)cm niêm phong đồ vật bên trong có 01 áo sơ mi dài tay, nền màu trắng, sọc ca rô xanh trên cổ áo có chữ “SuboyAN made in VietNam XXL”, 01 quần short màu rằn ri xanh xám đen; tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án 01 đĩa VCD có chứa nội dung đoạn video ghi lại hình ảnh bị cáo Nguyễn Văn B thực hiện hành vi phạm tội.

Bị cáo B tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 12/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản định giá tài sản, với kết luận điều tra, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Lợi dụng việc anh Vũ Ngọc P sơ hở trong việc quản lý tài sản nên khoảng 19 giờ 45 phút ngày 17/5/2019 Nguyễn Văn B đã lén lút vào văn phòng giao dịch truyền hình cáp SCTV chi nhánh tỉnh Bình Phước, thuộc khu phố 02, phường T, thành phố Đ nơi anh P làm việc để lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6+ màu xanh đen và 01 cục sạc điện thoại.

Tại kết luận định giá tài sản số 84/KLĐG ngày 21/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Đ kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 + màu xanh đen đã qua sử dụng trị giá 2.500.000 đồng; 01 cục sạc điện thoại di động màu trắng hiệu Samsung Galaxy đã qua sử dụng trị giá 50.000 đồng. Tổng trị giá 2.550.000 đồng.

Căn cứ vào hành vi bị cáo đã thực hiện và giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 2.550.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Bị cáo là người đã thành niên, hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích vụ lợi cá nhân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có 01 tiền án: Ngày 18/8/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Đ (nay là Thành phố Đ), tỉnh Bình Phước xử phạt 01 (một) năm tù về tội trộm cắp tài sản và nhiều lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không biết lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Do bị cáo đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do đó lần phạm tội này bị cáo phải chịu thêm tình tiết tăng nặng hình phạt là “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4] Bị cáo được xem xét các tình tiết giảm nhẹ là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, đã thu hồi trả lại cho người bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được Hội đồng xét xử xem xét trong việc lượng hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại anh Vũ Ngọc P đã nhận lại được tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6+ màu xanh đen; 01 cục sạc điện thoại và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy số vật chứng thu giữ trong vụ án hiện không còn giá trị sử dụng gồm 01 thùng giấy kích thước (30 x 22 x 23)cm niêm phong đồ vật bên trong có 01 áo sơ mi dài tay, nền màu trắng, sọc ca rô xanh trên cổ áo có chữ “SuboyAN made in VietNam XXL”, 01 quần short màu rằn ri xanh xám đen; Đối với 01 đĩa VCD có chứa nội dung đoạn video ghi lại hình ảnh bị cáo Nguyễn Văn B thực hiện hành vi phạm tội cần tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 18/5/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Do các bên không ai có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 thùng giấy niêm phong bên trong có 01 áo sơ mi dài tay và 01 quần short đã cũ có chữ ký niêm phong bên ngoài thùng giấy của điều tra viên Nguyễn Văn Đ, cán bộ lập biên bản Ngô Văn T.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001710, quyển số 0035, ký hiệu D47/2017 ngày 14/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Đ).

5. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:104/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về