Bản án 104/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 104/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 113/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 08 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 117/2019/HSST-QĐ ngày 27/9/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Văn S; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 20/8/1988; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường V, khu phố P, phường L, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn Đ và bà Ngô Thị Kim L; Tiền án: Ngày 01/12/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù, phạt tiền 32.000.000 đồng về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 151/2016/HS-ST; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/8/2007 bị Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” . Bị cáo bị giam giữ từ ngày 09/4/2019 tại Nhà tạm giữ Công an Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

1/ Anh Trịnh Thanh B, sinh năm 1999 (vắng mặt)

Địa chỉ: khu phố P, phường L, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Anh Dương Thành L, sinh năm 1990 (vắng mặt)

Địa chỉ: C, Ph, huyện N, tỉnh Đ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Phan Trọng N, sinh năm 1985 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Phú Long, xã Phú Thuận, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.

2/ Bùi Văn Đ, sinh năm 1995 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 32/51 Đường 10, khu phố Tam Đa, phường Trường Thạnh, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Đặng Bình P, sinh năm 1983 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện N, tỉnh Đ.

4/ Trương Hoàng H, sinh năm 1986 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 95 Đường L, khu phố P, phường T, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.

5/ Nguyễn Thanh A, sinh năm 1984 (vắng mặt)

Địa chỉ: Đường L, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ 1: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 30/3/2019, Đỗ Văn S đi bộ đến trạm điện Phú Hữu, đường Gò Cát, khu phố 4, phường Phú Hữu, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, thấy xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60M3 - 5838 của anh Dương Thành L không có người trông coi nên lén lút chiếm đoạt bỏ đi. S gỡ biển số 60M3 - 5838 để ở nhà còn xe thì mang bán cho 01 đối tượng (không rõ lai lịch) ở cầu Chà Và, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Số tiền bán xe S không nhớ nhưng đã tiêu xài hết.

Vụ thứ 2: Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 07/4/2019, Đỗ Văn S nhờ Trương Hoàng H chở đến nhà người quen. H điều khiển xe mô tô Honda Wave S màu đỏ đen (không rõ biển số) chở S khi đến xưởng gỗ số 738 đường Lã Xuân Oai, khu phố Phước Lai, phường Long Trường, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, S thấy có xe mô tô Honda Wave ZX biển số 51M2 - 0136 của anh Trịnh Thanh B đang để ở trong không có người trông coi, chìa khóa đang cắm trên xe nên S kêu H dừng xe lại, S xuống xe đi bộ lại chỗ để xe mô tô lén lút nổ máy xe chạy về tiệm bắn cá gần Đình Phước Lộc, phường Trường Thạnh, Quận 9, Huy tiếp tục điều khiển xe về nhà. S tháo biển số xe 51M2 - 0136 giấu trong tiệm game bắn cá, rồi thay bằng biển số 60M3 - 5838 (biển số xe mô tô do S đã trộm cắp trước đó). S gọi điện cho Bùi Văn Đ để bán xe, Đ giới thiệu cho Phan Trọng N đến gặp S mua xe mô tô honda Wave ZX biển số 51M2 - 0136 với giá 4.000.000 đồng. S cho Đ số tiền 200.000 đồng. Số tiền bán xe còn lại, S đã tiêu xài vào việc cá nhân, còn lại 700.000 đồng đã giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9. Ngày 08/4/2019, Tổ tuần tra Công an Quận 9 kiểm tra Đỗ Văn S nên mời về làm việc.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Đỗ Văn S đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Đối với Bùi Văn Đ, Nguyễn Thanh An, Phan Trọng N do không biết xe mô tô là tài sản mà Đỗ Văn S trộm cắp mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 không xử lý là có căn cứ.

Đối với Trương Hoàng H không biết Đỗ Văn S trộm cắp tài sản nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 không xử lý.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60M3 - 5838, số máy: HC09E, số khung: 09053Y037094. Theo Kết luận định giá tài sản số 120 ngày 03/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân Quận 9 kết luận giá trị còn lại là 2.900.000 đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 không thu hồi được tài sản.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave ZX biển số 51M2 – 0136. Theo Kết luận định giá tài sản số 100 ngày 29/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 9 kết luận có giá trị còn lại là 4.200.000 đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã thu hồi trả cho chủ sở hữu.

- Số tiền 700.000 đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đang tạm giữ;

- 01 biển số 60M3 – 5838 và 01 USB chứa video ghi lại hình ảnh Đỗ Văn S trộm cắp xe mô tô biển số 51M2 – 0136. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đang tạm giữ.

Về dân sự:

- Anh Trịnh Thanh B đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì khác.

- Anh Dương Thành L yêu cầu bồi thường giá trị chiếc xe bị mất 8.000.000 đồng.

- Phan Trọng N không yêu cầu bồi thường số tiền đã mua xe của Đỗ Văn S.

Tại Cáo trạng số 102/CT-VKS ngày 30 tháng 07 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Đỗ Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đỗ Văn S về tội Trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo phạm tội 2 lần, phạm tội khi chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Đỗ Văn S mức án từ 02(hai) năm đến 02(hai) năm 06(sáu) sáu tháng tù. Buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho anh Dương Thành L. Vật chứng xử lý theo quy định. Đối với số tiền 700.000 đồng bị cáo có được từ việc bán xe cho anh Phan Trọng N. Do anh Nghĩa không có yêu cầu nhận lại nên đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Bị cáo Đỗ Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, không bào chữa gì. Bị cáo đồng ý bồi thường cho anh anh Dương Thành L giá trị chiếc xe bị mất là 8.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 9, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất với tội danh và điều luật mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội đối với bị cáo. Xét, lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản thực nghiệm điều tra; Biên bản ghi lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9; Bản tự khai của bị cáo; Lời khai của người bị hại, người làm chứng; Tang vật thu giữ; Kết luận định giá tài sản số 120-2019/KL-ĐGTS ngày 03/07/2019 và Kết luận định giá tài sản số 100-2019/KL-ĐGTS ngày 29/05/2019 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân Quận 9 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người bị hại là anh Trịnh Thanh B và anh Dương Thành L có tổng trị giá là 7.100.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình đã gây ra; Bị cáo biết rõ việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình phạm tội. Bị cáo nhiều lần cố ý thực hiện hành vi phạm tội của mình và phạm tội khi chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Anh Trịnh Thanh B đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác nên xem xét. Anh Dương Thành L yêu cầu bị cáo bồi thường trị giá chiếc xe bị chiếm đoạt là 8.000.000 đồng. Xét thấy yêu cầu bồi thường của anh Lập là có căn cứ theo Điều 48 Bộ luật hình sự, đồng thời bị cáo đồng ý bồi thường cho anh Lập nên ghi nhận. .

[5] Về xử lý vật chứng:

- Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã thu hồi, trả lại cho anh Trịnh Thanh B 01 xe mô tô hiệu Honda Wave ZX biển số 51M2 – 0136 là có căn cứ nên chấp nhận.

- 01 biển số 60M3 – 5838 01 USB chứa video ghi lại hình ảnh Đỗ Văn S.

Không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 700.000 đồng bị cáo có được từ việc bán xe cho anh Phan Trọng N. Do anh Nghĩa không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017:

1.1 Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.2 Xử phạt Đỗ Văn S 02(hai) năm 06(sáu) sáu tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/04/2019.

2. Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự 2015: Buộc bị cáo Đỗ Văn S tiếp tục bồi thường cho anh Dương Thành L 8.000.000 đồng (tám triệu đồng).

3. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:

3.1 Tịch thu tiêu hủy: 01 biển số 60M3 – 5838 và 01 USB chứa video ghi lại hình ảnh Đỗ Văn S. Theo lệnh nhập kho vật chứng số 61/19 ngày 02/7/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.2 Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm ngàn đồng). Theo phiếu thu số 241 ngày 04/7/2019 Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đỗ Văn S phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với trường hợp vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:104/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về