Bản án 1036/2018/HNGĐ-ST ngày 02/08/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1036/2018/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 02 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án thụ lý số 350/2017/TLST-HNGĐ ngày 03/8/2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3053/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Phát N, sinh năm 1976 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Phường X, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Dương Thị Tuyết D, sinh năm 1970 (vắng mặt) Quốc tịch: Việt Nam.

Đa chỉ: Espoo Finland.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/7/2017 và quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Phát N trình bày:

Ông và bà Dương Thị Tuyết D đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 08/02/2012, vào Sổ đăng ký kết hôn số 399, quyển số 02, ngày 10/02/2012. Trong thời gian chung sống, ông và bà D phát sinh mâu thuẫn vì bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự chia sẻ với nhau. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với bà Dung.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Tòa án không thể tiến hành hòa giải đoàn tụ được vì bà Dương Thị Tuyết D đang cư trú tại Phần Lan.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Ông Nguyễn Phát N và bà Dương Thị Tuyết D đều vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với các đương sự vắng mặt, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Phát N, cho ông Nguyễn Phát N được ly hôn với bà Dương Thị Tuyết D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Phát N đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh có đơn xin ly hôn với bà Dương Thị Tuyết D hiện đang sinh sống tại Phần Lan. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 37, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông N và bà D tham gia phiên tòa vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 02/8/2018. Ông N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Đối với bà Dung, Tòa án đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp tống đạt Thông báo về việc thụ lý và xét xử vụ án dân sự sơ thẩm số 467/TB-TA ngày 25/9/2017 cho bà D tại địa chỉ: Kyyhkysmaki 9B 17 02650 Espoo Finland theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bà D không đến tòa án, cũng không có văn bản trả lời được cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Phần Lan xác nhận chữ ký hoặc hợp pháp hóa lãnh sự. Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điều 228, Khoản 4, Điểm c Khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn ngày 08/02/2012, vào Sổ đăng ký kết hôn số 399, quyển số 02, ngày 10/02/2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Phát N và bà Dương Thị Tuyết D là hợp pháp.

Theo ông Ntrình bày, sau khi kết hôn vợ chồng ông chung sống không hòa hợp, nảy sinh mâu thuẫn và đã cố gắng nhưng không hòa giải được. Từ năm 2013 bà D ở Phần Lan còn ông N vẫn sinh sống ở Việt Nam. Từ đó đến nay đã 5 năm mà bà Dkhông liên lạc gì với ông Nông, cả hai sống ly thân nhau. Do khoảng cách về địa lý, hai bên không có điều kiện gần gũi, chăm sóc nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng bị phai nhạt, hạnh phúc vợ chồng không có. Về phía bà Dung, Tòa án đã tiến hành ủy thác tư pháp cho bà D theo quy định pháp luật nhưng bà D không có phản hồi. Điều này cũng chứng tỏ bà D không quan tâm đến cuộc hôn nhân này nữa. Về phía ông N xác định không còn tình cảm với bà D nên dứt khoát xin ly hôn.

Xét thấy mục đích hôn nhân chỉ có thể đạt được khi vợ chồng thương yêu, quan tâm, chăm sóc nhau. Đây cũng là tình cảm và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, nay tình cảm không còn, vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Do đó ông N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với bà D là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Nguyên đơn khai không có nên không xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai không có nên không xét.

[4] Về án phí : Án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng ông Nguyễn Phát N phải chịu theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Ông Nông, bà D được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 37, Điều 40, Điều 147, Khoản 1 Khoản 3 Điều 228, Điều 262, Điều 273, Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Nguyễn Kiến Đức.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Phát N được ly hôn với bà Dương Thị Tuyết D.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Phát N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (hai trăm ngàn) đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 (hai trăm ngàn) đồng ông Nguyễn Phát N đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2017/0047308 ngày 31 tháng 7 năm 2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Ông Nguyễn Phát N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Phát N được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Bà Dương Thị Tuyết D có quyền kháng cáo trong hạn 12 tháng kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1036/2018/HNGĐ-ST ngày 02/08/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1036/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về