Bản án 103/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 103/2020/HS-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 98/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020, đối với bị cáo:

* Phạm Tùng L, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Phạm Văn L, sinh năm 1967; Con bà: Doãn Thị A, sinh năm 1970; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên, (có mặt).

* Người chứng kiến: Chị Nguyễn Thị Kim T, chị Nguyễn Thị Tố U, chị Phạm Thị Thu D, (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 04 tháng 6 năm 2020, tại trước cửa quán Cafe Home thuộc thôn D, xã E, huyện G, tỉnh Hưng Yên, Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh bắt quả tang Phạm Tùng L, sinh năm 1993, nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Hưng Yên đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; thu giữ trong túi quần phía sau bên phải L đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 túi nilon có viền phía trên màu xanh, chứa chất kết tinh màu trắng được niêm phong ký hiệu (MT); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đỏ được niêm phong ký hiệu (ĐT) và 01 mũ lưỡi trai màu trắng.

Bản kết luận giám định số 184/MT-PC09 ngày 07 tháng 6 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận:

- Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ký hiệu MT, có tổng khối lượng: 3,319 là ma túy, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Phạm Tùng L khai nhận: Bản thân L là người nghiện ma túy đá từ năm 2017. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 04/6/2020, L đi xe buýt từ nhà đến quán Cafe home thuộc thôn D, xã E, huyện G, tỉnh Hưng Yên gặp một người đàn ông không biết rõ tên, tuổi địa chỉ mua 1.500.000 đồng ma túy đá. Sau khi mua xong, L cầm gói ma túy giấu vào túi quần phía sau bên phải rồi đứng dậy đi ra đến cửa quán thì lực lượng Công an tỉnh Hưng Yên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số vật chứng. Về số ma túy đã thu giữ, Phạm Tùng L khai nhận mục đích mua về để sử dụng.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho L, L không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Ngày 04/6/2020, L đã liên hệ để mua ma túy của người đàn ông này qua số điện thoại 0766.301.948. Cơ quan điều tra đã ra lệnh thu giữ thư tín, điện tín đối với số điện thoại 0766.301.948. Kết quả xác định, số thuê bao trên đăng ký tên chủ thuê bao là Nguyễn Văn S, sinh năm 1979, nơi cư trú: Thôn H, xã I, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Quá trình làm việc, anh S khai không đăng ký sử dụng số thuê bao 0766.301.948, không có quan hệ gì với L, không mua bán, cho tặng chất ma túy với L. Cơ quan điều tra đã cho L nhận dạng, kết quả L không nhận dạng được người bán ma túy cho L buổi chiều ngày 04/6/2020. Do vậy, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, đề nghị xử lý sau.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Phạm Tùng L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKS-P1 ngày 27/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên đã truy tố bị cáo Phạm Tùng L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Phạm Tùng L nhận tội, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Tùng L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Tùng L từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2020; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo L. Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định và 01 chiếc mũ dạng mũ lưỡi trai màu trắng; Tịch thu, cho phát mại, sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ đen, bên trong có 01 sim Vinaphone.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Hưng Yên; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ giai đoạn điều tra cho đến phiên tòa sơ thẩm đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Tùng L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trước Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Bản Kết luận giám định số 184/MT-PC09 ngày 07/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên; phù hợp với lời khai của những người chứng kiến khi Cơ quan điều tra bắt quả tang, niêm phong đồ vật bị tạm giữ, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 04/6/2020, tại khu vực trước cửa quán Cafe Home thuộc thôn D, xã E, huyện G, tỉnh Hưng Yên, Phạm Tùng L đang có hành vi tàng trữ trái phép tàng trữ trái phép 3,319g ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hưng Yên bắt quả tang.

Bị cáo Phạm Tùng L là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo tàng trữ 3,319g ma túy loại Methamphetamine để sử dụng, nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an xã hội; là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo biết rất rõ tác hại của ma túy cũng như hậu quả và hệ lụy xấu của việc sử dụng chất ma túy để lại đối với sức khỏe, kinh tế của chính bản thân người nghiện, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý tàng trữ ma túy để sử dụng. Do vậy, cần xét xử vụ án nghiêm minh, có một mức hình phạt thỏa đáng tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian cần thiết để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phạm Tùng L không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; bị cáo có ông nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba; có ông ngoại là cán bộ lão thành cách mạng được tặng thưởng Giấy khen, Kỷ niệm chương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử s xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, bản thân không có tài sản gì có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số ma túy là Methamphetamine hoàn lại sau giám định là hàng cấm tàng trữ, lưu hành; 01 chiếc mũ dạng mũ lưỡi trai màu trắng là vật không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu cho tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đỏ, bên trong có 01 sim Vinaphone, bị cáo dùng liên lạc để mua ma túy nên tịch thu, cho phát mại sung vào ngân sách Nhà nước.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt

- Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tùng L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Tùng L 03 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, cho tiêu hủy: 01 phong bì số 184/MT-PC09, số TCGĐ: 107/PC02 được niêm phong bằng 03 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên; 01 chiếc mũ (dạng mũ lưỡi trai) màu trắng.

- Tịch thu, cho phát mại sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ đen, bên trong lắp 01 thẻ sim Vinaphone có trong 01 phong bì được niêm phong bằng 03 dấu đỏ của Phòng cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên.

(Số lượng, chủng loại, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo quyết định chuyển vật chứng số 36/QĐ-VKS-P1 ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên).

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Tùng L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2020/HS-ST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về