Bản án 103/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 103/2020/HS-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 100/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo:

Trần Quang T; sinh năm 1976, tại Long An; nơi cư trú: Âp 8, xã V, huyện C, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Q và bà Phạm Thị O; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 11/5/2018, Công an xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa thi hành.

Nhân thân:

- Ngày 19/01/2000, Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 15 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”. Được đặc xá tha tù trước thời hạn kể từ ngày 01/9/2000; được miễn thi hành án phí hình sự sơ thẩm.

- Ngày 15/01/2020, thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” tại xã V, huyện C, tỉnh Long An, hiện Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đang thụ lý điều tra nhưng chưa có kết quả.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2020 đến nay (có mặt).

- B hại: Ông Trương Văn Th, sinh năm 1973; nơi cư trú (hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; chỗ ở: 2920 P, Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh), (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vì muốn có tiền tiêu xài nên Trần Quang T nảy sinh ý định tìm tài sản sơ hở của người khác để chiếm đoạt bán lấy tiền. Vào khoảng 03 giờ 10 phút, ngày 06/01/2020, Trần Quang T điều khiển xe mô tô biển số 70P1-6314 đi trên đường P, Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm tài sản chiếm đoạt, khi đến trước công trình xây dựng nhà không số (đối diện số 21 đường 19A nối đường B - P, Phường 7, Quận 8), thấy không có người trông coi nên T dựng xe cách công trình khoảng 10 mét, rồi lén lút vào trong công trình tìm kiếm tài sản. Bên trong công trình, T nhìn thấy anh Nguyễn Văn N (là phụ hồ tại công trình) đang nằm ngủ trên giường, T lấy điện thoại di động mở đèn soi dưới gầm giường thì thấy 01 máy đục bê tông. T để điện thoại xuống rồi lén lút mang máy đục bê tông nêu trên ra bãi đất trống cạnh công trình cất giấu, sau đó quay lại lấy điện thoại thì bị anh N phát hiện truy hô và cùng ông Nguyễn Văn L (là cha anh N, cùng làm công tại công trình) giữ T lại cùng với vật chứng giao Công an Phường 7, Quận 8 trình báo, xử lý. Ngoài ra, Công an còn tạm giữ của T01 chiếc xe mô tô biển số 70P1-6314 và 01 điện thoại di động hiệu Itel.

Ngày 05/02/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận, xác định máy đục bê tông do bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 2.500.000 đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8 đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Trần Quang T về tội “Trộm cắp tài sản”. Quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Ông Trương Văn Th khai: Ông là chủ thầu công trình xây dựng nhà không số (đối diện số 21 đường 19A nối đường B - P, Phường 7, Quận 8). Khoảng 03 giờ 30 phút, ngày 06/01/2020, ông T được người làm công là ông Nguyễn Văn L gọi điện thoại báo có người vào công trình lấy trộm máy đục bê tông. Ông T xác định máy đục bê tông bị chiếm đoạt là tài sản của ông dùng vào việc thi công công trình. Ngày 05/3/2020, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại máy đục bê tông cho ông T, đồng thời ông T không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Xe mô tô biển số 70P1-6314 tạm giữ của bị cáo, qua xác minh do ông Lê Văn N (cư trú tại xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh) đứng tên chủ sở hữu, vào khoảng tháng 5/2010, ông N đã mang xe đi cầm cố cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) ở tỉnh Tây Ninh và từ đó đến nay chưa nhận lại xe, đồng thời cũng không có yêu cầu nhận lại xe. Cơ quan điều tra đã có thông báo đăng tin tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp của xe nhưng chưa có kết quả.

Tại bản Cáo trạng số 104/CT-VKS ngày 10/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Trần Quang T về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa,

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Quang T về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động tạm giữ của bị cáo và đăng tin tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp của xe mô tô biển số 70P1-6314 theo quy định pháp luật, về trách nhiệm dân sự, bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định vào khoảng 03 giờ 10 phút, ngày 06/01/2020, tại công trình xây dựng nhà không số (đối diện số 21 đường 19A nối đường B - P, Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh), bị cáo Trần Quang T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 máy đục bê tông có giá trị là 2.500.000 đồng của Ông Trương Văn Th, hành vi của bị cáo đã kịp thời bị phát hiện và bị bắt giữ.

[3] Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Trộm cắp tài sản” như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. ”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Trần Quang T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[6] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại, thuộc trường hợp “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”, vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[7] Năm 2000, bị cáo bị Toà án kết án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân”; tháng 5/2018, bị Công an xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa thi hành nộp phạt. Ngoài ra, sau khi phạm tội vào ngày 06/01/2020 tại Quận 8 thì ngày 15/01/2020, bị cáo lại có hành vi “Trộm cắp tài sản” tại huyện C, tỉnh L. Mặc dù không bị xem là án tích nhưng khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét để có mức hình phạt phù hợp với nhân thân của bị cáo.

[8] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng vụ án, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả máy đục bê tông cho bị hại, đồng thời bị hại không có ý kiến, yêu cầu gì liên quan đến việc tạm giữ, xử lý vật chứng nên không đề cập giải quyết.

[10] Xe mô tô biển số: 70P1-6314 tạm giữ của bị cáo, qua xác minh do ông Lê Văn N đứng tên sở hữu nhưng ông N xác định đã cầm cố cho người khác không rõ lai lịch và đến nay chưa nhận lại, đồng thời cũng không có yêu cầu nhận lại xe. Do chưa xác định được người quản lý hợp pháp của xe nên cần tiếp tục đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng tìm người quản lý hợp pháp xe trên trong thời hạn 01 năm, hết thời hạn trên không có người nhận hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[11] - 01 điện thoại di động hiệu Itel tạm giữ của bị cáo, xét bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[12] Về trách nhiệm dân sự, bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[13] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Quang T01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/3/2020.

- Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các điều 221, 228 của Bộ luật Dân sự.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động màu đen xám, trên điện thoại có in dòng chữ Itel, số imei 1: 357549084388060, số imei 2: 357549084388078.

Tiếp tục tạm giữ và đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng thời hạn 01 năm tìm người quản lý hợp pháp của 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu KENLI, biển số: 70P1-6314, số máy: VHLFM152FMHV361143, số khung: RMNWCHUMN8H001143, nếu hết thời hạn trên không tìm được người quản lý hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 104/PNK ngày 02/6/2020).

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Trần Quang T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:103/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về