Bản án 103/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 103/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 86/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên số: 100/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Hờ A M, tên gọi khác: Không; sinh năm: 1967, tại tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản H, xã M, huyệ C, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hờ A V, sinh năm 1949 và bà Giàng Thị M, sinh năm 1951; có vợ là Lầu Thị S, sinh năm 1970 và 06 người con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 01/10/2019, tạm giam từ ngày 04/10/2019, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo do Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên cử: Ông Hoàng Tiến Ng - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lầu Thị S – Sinh năm 1970; địa chỉ cư trú: Bản H, xã M, huyện C, tỉnh Điện Biên, có mặt.

- Người chứng kiến: ông Vàng A Ch - Sinh năm: 1999; Địa chỉ cư trú: Bản M, xã H, huyện C, tỉnh Điện Biên, vắng mặt.

- Người phiên dịch: Ông Sùng A C - Sinh năm: 2000; Địa chỉ cư trú: Tổ 16, phường M, thành phố P, tỉnh Điện Biên, có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 01/10/2019, bị cáo Hờ A M điều khiển xe máy nhãn hiệu DETECH biển kểm soát 27V1-058.15 và mang theo 08 triệu đồng từ nhà lên mốc 83 thuộc biên giới Việt - Lào, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. Khi đến khu vực mốc 83, bị cáo M gặp và mua được 03 túi Methamphetamine có khối lượng 62,312gam và 01 chỉ Heroine có khối lượng 3,873gam của một người đàn ông khoảng 50 tuổi không rõ tên, tuổi, địa chỉ, với giá 7.500.000đồng. Bị cáo M cất giấu số ma túy trên vào túi vải màu đỏ khoác trên người rồi đi về. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo M đi đến khu vực bản H, xã M, huyện C, tỉnh Điện Biên thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng M phát hiện bắt giữ cùng số ma túy trên.

Ti bản kết luận giám định số: 958/GĐ-PC09, ngày 10/10/2019, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 03 (ba) Mẫu viên nén màu hồng và 03 (ba) mẫu viên nén màu xanh trích ra từ vật chứng thu giữ của Hờ A M gửi giám định là ma túy: Loại Methamphetamine. Mẫu chất bột màu vàng đục trích ra từ vật chứng thu giữ của Hờ A M gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng thu giữ của Hờ A M gồm: 62,312gam viên nén màu hồng, màu xanh loại Methamphetamine; 3,873gam chất bột màu vàng đục loại Heroine. Tổng cộng khối lượng hai loại ma túy là 66,185gam.

Cáo trạng số: 70/CT-VKS-P1 ngày 28/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Hờ A M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hờ A M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử như sau: Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hờ A M từ 16 đến 17 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Về vật chứng vụ án, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 3,479gam Heroine; 60,692gam Methamphetamine và 01 (một) túi vải màu đỏ đã qua sử dụng. Trả lại cho bị cáo số tiền 500.000đồng đã niêm phong trong 01 (một) phong bì thư. Tịch thu ½ giá trị chiếc xe máy thu giữ của bị cáo Hờ A M để sung ngân sách nhà nước và trả lại ½ giá trị xe máy cho bà Lầu Thị S.

Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hờ A M.

Người bào chữa cho bị cáo không tranh luận về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố và bản luận tội của Kiểm sát viên. Đề nghị HĐXX xem xét trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; do đó, áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo mức án thấp nhất do Viện kiểm sát đề nghị là 16 năm tù để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội. Trả lại ½ giá trị chiếc xe máy cho bà S; miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án Bà Lầu Thị S trình bày: Khoảng năm 2009 chồng bà là bị cáo Hờ A M mang 11.500.000đồng của gia đình đi mua 01 xe máy sau đó đi đăng ký có biển kiểm soát là 27V1-058.15. Ngày 01/10/2019 bị cáo sử dụng xe máy đi mua bán ma túy bà hoàn toàn không biết; do đó, bà đề nghị HĐXX xem xét trả lại một phần chiếc xe máy cho bà.

Người chứng kiến anh Vàng A Ch trình bày tại cơ quan điều tra: Khoảng 17 giờ ngày 01/10/2019 anh được bộ đội biên phòng Đồn M mời chứng kiến việc bắt giữ bị cáo Hờ A M, thu giữ trên người bị cáo 01 gói chất bột màu trắng đục và 03 gói ma túy tổng hợp là các viên nén màu hồng, màu xanh trên mặt có chữ WY; thu giữ 01 xe máy và 500.000đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bị cáo không bị ai đánh đập hoặc ép phải khai báo.

Ti phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo Qua tranh tụng tại phiên tòa cho thấy: Khoảng 12 giờ ngày 01/10/2019, bị cáo Hờ A M một mình điều khiển xe máy biển kểm soát 27V1-058.15 đi lên mốc 83 thuộc biên giới Việt – Lào, tìm mua ma túy để sử dụng và bán tìm kiếm lợi nhuận. Khi đến mốc 83, bị cáo M gặp và mua được 03 túi Methamphetamine có khối lượng 62,312 gam và 01 chỉ Heroine có khối lượng 3,873 gam của một người đàn ông không quen biết với giá là 7.500.000đồng. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo đi về đến khu vực bản H, xã M, huyện Ch, tỉnh Điện Biên thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng M phát hiện bắt giữ. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 01- 02); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 19, 20, 21); biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định chất ma túy và niêm phong lại vật chứng (BL 23-24); kết luận giám định (BL 26); biên bản ghi lời khai của người chứng kiến Vàng A Ch (BL 73-74) và phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định bị cáo Hờ A M đã mua 62,312gam Methamphetamine và 3,873gam Heroine để sử dụng và bán nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Hành vi của bị cáo gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng khối lượng 02 loại ma túy là 66,185gam do đó bị cáo phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng 70/CT-VKS-P1 ngày 28/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Hờ A M về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm, khoản, điều luật áp dụng là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi của mình Nhà nước nghiêm cấm. Hành vi của bị cáo xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà trực tiếp là hoạt động mua, bán chất ma túy. Hành vi của bị cáo là một trong các nguyên nhân gây mất trật tự, an toàn xã hội của địa phương. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận bị cáo biết việc Nhà nước cấm tất cả các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma túy, biết tác hại của ma túy với đời sống và sức khỏe của con người, nhưng chỉ vì lợi nhuận mà bị cáo đã có hành vi giao dịch, mua bán trái phép chất ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Ch, tỉnh Điện Biên.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ Bị cáo Hờ A M sinh ra và cư trú tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; bản thân không được học tập văn hóa do gia đình khó khăn. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vì lợi ích cá nhân.

Bị cáo không có tiền sự; không có tiền án; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên và Người bào chữa cho bị cáo về tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt chính:

Từ các phân tích tại các đoạn [1], [2], [3], Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hờ A M vừa đảm bảo tính răn đe, giáo dục bị cáo vừa thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên và Người bào chữa cho bị cáo về hình phạt chính đối với bị cáo là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Căn cứ vào biên bản xác minh tài sản của cơ quan điều tra và qua tranh tụng tại phiên tòa cho thấy, gia đình bị cáo không có tài sản gì giá trị ngoài vật dụng sinh hoạt (BL 68) và gia đình thuộc hộ nghèo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên và Người bào chữa cho bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và tịch thu tài sản theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Đn biên phòng M, cán bộ; Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, Người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Các vấn đề khác của vụ án:

Đi tượng người đàn ông theo lời khai của bị cáo là người bán ma túy cho bị cáo, do không đủ thông tin để Cơ quan cảnh sát điều tra xác minh làm rõ, do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Cần tịch thu tiêu hủy 3,479gam Heroine và 60,692gam Methamphetamine đã trừ mẫu gửi giám định vì đây là vật Nhà nước cấm lưu hành.

- 01 (một) túi vải màu đỏ đã qua sử dụng, xét thấy không còn giá trị sử dụng cần tiêu hủy.

- Trả lại cho bị cáo số tiền 500.000đồng đã niêm phong trong 01 (một) phong bì thư, các mép được dán kín. Mặt trước của phong bì có ghi dòng chữ: “Tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) của Hờ A M vì không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo.

- 01 (một) chiếc xe máy thu giữ của bị cáo theo phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ do Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Điện Biên (BL 70) nhãn hiệu xe bị thu giữ của bị cáo Hờ A M là ESPERO, xe đã qua sử dụng, đây là tài sản chung của gia đình bị cáo và cũng là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu ½ giá trị nộp ngân sách nhà nước và trả lại ½ giá trị xe máy cho bà Lầu Thị S.

[9] Về án phí:

Bị cáo Hờ A M sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, theo quy định tại Quyết định số 582/QĐ-TTG ngày 28/4/2017 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-2020, gia đình thuộc hộ nghèo; căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử thấy cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điểm h Khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố:

Bị cáo Hờ A M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Hờ A M 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/10/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

* Tch thu tiêu hủy các vật sau:

- 3,479gam Heroine và 60,692gam Methamphetamine đã trừ mẫu gửi giám định đã niêm phong trong 01 phong bì công văn của Phòng Cảnh sát ĐTTP về ma túy, Công an tỉnh Điện Biên, được dán kín các mép. Mặt trước phong bì có dòng chữ: “Vật chứng thu giữ của Hờ A M, SN 1967, cư trú: Bản H, xã M, huyện Ch, tỉnh Điện Biên. Bị Đồn biên phòng M và Phòng PCMT và TP Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh Điện Biên bắt quả tang ngày 01/10/2019, tại bản H, xã M, huyện Ch, tỉnh Điện Biên về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Vật chứng là 01 cục chất bột màu vàng đục, có khối lượng 3,479gam (đã trừ mẫu vật gửi giám định); 03 gói nilon màu xanh, chứa các viên nén màu hồng ký hiệu WY, có khối lượng 60,692gam (đã trừ mẫu vật gửi giám định), nghi ma túy tổng hợp”. Mặt sau gói niêm phong, tại mép dán có chữ ký, họ tên của: Lương Việt H, Lê Văn V, Ngô Thị Th, Hoàng Xuân L, Ngô Tiến Q, điểm chỉ vân tay trỏ phải của Hờ A M và dấu niêm phong của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Điện Biên. Ngoài cùng phong bì được dán kín bằng lớp băng dính trắng.

- 01 (một) túi vải màu đỏ đã qua sử dụng, thu giữ của Hờ A M.

* Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu ESPERO, màu đen, biển số 27V1-058.15, số khung: RPEXCH8PEDA *168705*, số máy: VDEJQ152FMH-B*168705*, xe đã qua sử dụng.

* Trả lại cho bà Lầu Thị S: ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu ESPERO, màu đen, biển số 27V1-058.15, số khung: RPEXCH8PEDA *168705*, số máy: VDEJQ152FMH-B*168705*, xe đã qua sử dụng.

* Trả lại cho bị cáo Hờ A M tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 500.000đồng đã được niêm phong trong 01 phong bì thư.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Điện Biên và Cục thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 28 tháng 10 năm 2019).

3. Về án phí: Min án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hờ A M.

4. Về quyền kháng cáo:Bị cáo Hờ A M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Lầu Thị S có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về