Bản án 103/2019/HSST ngày 14/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 103/2019/HSST NGÀY 14/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa công khai ngày 14/5/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 136/2019/TLST-HS ngày 11/4/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2019/QĐXXST-HS ngày 25/4/2019, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: LÊ THÁI H Sinh năm: 1996, tại thành phố N Tên gọi khác: Thái

ĐKNKTT: Tổ 14 Ngọc Thảo, N. H, thành phố N, Khánh Hòa

Chỗ ở: Hẻm Hà Thanh, V. Th, thành phố N, Khánh Hòa.

Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không

Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 09/12

Con ông: Lê Văn L và bà: Thái Thị Như H

Tiền án, tiền sự: Không

Bắt, tạm giam ngày 08/6/2017

Bị cáo có mặt tại phiên tòa

2. Họ và tên: HUỲNH THẾ C Sinh năm: 1985, tại: Cam Lâm

ĐKNKTT: Thôn Bãi Giếng 3, thị trấn C. Đ, C. L, Khánh Hòa;

Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không

Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 12

Con ông: Huỳnh Văn H và bà: Nguyễn Thị Th

Tiền án, tiền sự: Không

Bắt, tạm giam từ ngày 08/6/2017 đến ngày 20/4/2018 thay đổi biện pháp

ngăn chặn tạm giam bằng cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Hoàng Hoài N

Địa chỉ: 59 Nguyễn Đức Cảnh, P. L, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt.

2/ Ông Nguyễn Đình Th.

Địa chỉ: Bãi Giếng 2, C. Đ, C. L, Khánh Hòa. Vắng mặt.

* Người chứng kiến: Ông Lê Mạnh H

Địa chỉ: Phước Thượng, P. Đ, thành phố N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 20 ngày 08/06/2017, tại khu vực khách sạn Viễn Đông, số 01 Trần Hưng Đạo, L. T, thành phố N, tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố N phát hiện Huỳnh Thế C có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, C tự lấy trong người ra giao nộp cho tổ công tác 01 bịch nilon kích thước (0,4 x 0,7)cm có hàn miệng, bên trong có 05 viên dạng nén hình tròn màu xanh lá cây một mặt có in hình vương miện, có khối lượng 1,5885g, 01 viên nén hình bán nguyệt màu xanh da trời có khối lượng 0,1344g và 01 bịch nilong kích thước (0,2 x 0,4)cm có hàn miệng, bên trong chứa 0,3936g chất tinh thể màu trắng. Tại cơ quan Công an, C khai nhận số viên dạng nén và chất tinh thể màu trắng bị thu giữ trên là ma túy vừa mua của nam thanh niên tên Lê Thái H để sử dụng cho bản thân.

Đến 03 giờ cùng ngày, tổ công tác phát hiện Lê Thái H và Hoàng Hoài N đang điều khiển xe máy AIRBLADE màu đen, BKS 79N2-144.50 đứng trước khu vực khách sạn Quốc Tế, số 09 Nguyễn Thiện Thuật, L. T, thành phố N, nên yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, H tự lấy trong người ra giao nộp cho tổ công tác 09 bịch nilon kích thước (2 x 4)cm có hàn miệng, bên trong chứa 3,5343g chất tinh thể màu trắng. Tại cơ quan công an, H khai nhận số chất tinh thể màu trắng bị thu giữ trên là ma túy “khay”, mua của nam thanh niên tên Đại (chưa xác định được lai lịch) tại VĐT, thành phố N, mục đích để sử dụng và bán lại kiếm lời. H khai nhận trước đó khoảng 00 giờ 15 phút ngày 08/06/2017, tại khu vực khách sạn Viễn Đông, số 01 Trần Hưng Đạo, L. T, thành phố N, H đã bán cho C 05 viên thuốc lắc và 01 bịch ma túy “khay” với giá 2.750.000đ. Ngoài ra, vào khoảng cuối tháng 04/2017, tại vũ trường Lodge, thành phố N, H đã bán 03 viên thuốc lắc cho C với giá 900.000đ.

Tại bản Kết luận giám định số 286/GĐTP/2017 ngày 13/06/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận:

- Viên nén hình tròn, màu xanh lá cây trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy ở thể rắn, loại MDMA.

- Một phần viên nén màu xanh da trời trong mẫu ký hiệu B gửi giám định là ma túy ở thể rắn, loại MDMA. MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 22, Nghị định 82/NĐ-CP ngày 19/07/2013 của Chính phủ.

- Tinh thể màu trắng, trong các mẫu C, D gửi giám định là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine.

Khối lượng các mẫu gửi giám định:

- Mẫu ký hiệu A có khối lượng 1,5885g;

- Mẫu ký hiệu B có khối lượng 0,1344g;

- Mẫu ký hiệu C có khối lượng 0,3936;

- Mẫu ký hiệu D có khối lượng 3,5342g.

Tại Kết luận giám định số 3917/C54B ngày 20/12/2017 của Phân viện KHHS tại TP.HCM - Tổng cục Cảnh, Bộ Công an, sát kết luận:

- Gói ký hiệu A: chất bột màu xanh đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA.

- Gói ký hiệu C: chất màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, hàm lượng 64,41%. Trọng lượng Ketamine trong 0,3936 gam (Theo KLGĐ số 286/GĐTP/2017 ngày 13/06/2017 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Khánh Hòa) là 0,2535 gam.

- Gói ký hiệu D: chất màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại loại Ketamine, hàm lượng 64,65%. Trọng lượng Ketamine trong 3,5342 gam (Theo KLGĐ số 286/GĐTP/2017 ngày 13/06/2017 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Khánh Hòa) là 2,2849 gam.

Bản cáo trạng số 121/CT-VKS ngày 12/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Lê Thái H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và truy tố Huỳnh Thế C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Thế C khai nhận: Khoảng 00 giờ 20 phút ngày 08/6/2017, bị cáo bị bắt quả tang khi đang tàng trữ 1,7229g ma túy loại MDMA và 0,2535g ma túy loại Ketamine. Số ma túy này bị cáo vừa mua của Lê Thái H. Đến 03 giờ 00 phút ngày 08/6/2017, Lê Thái H bị bắt giữ đang tàng trữ 2,2849g ma túy loại Ketamine nhằm mục đích sử dụng và để bán cho những người nghiện khác. Ngoài ra Lê Thái H thừa nhận đã bán cho Huỳnh Thế C 2 lần ma túy. Ma túy Lê Thái H bán cho Huỳnh Thế C do H mua của một người tên Đại (không rõ lai lịch) tại VĐT, V. H, thành phố N.

[2] Căn cứ diễn biến của vụ án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N kiểm sát xét xử tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lê Thái H từ 07 năm tù đến 08 năm tù; áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 194; điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Huỳnh Thế C từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử lý trách nhiệm dân sự, vật chứng vụ án và tiền án phí theo quy định chung.

[4] Hội đồng xét xử nhận thấy:

[4.1] Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với Biên bản sự việc, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Khánh Hòa, của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an; phù hợp lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa.

[4.2] Bản kết luận giám định số 286/GĐTP/2017 ngày 13/06/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa và Kết luận giám định số 3917/C54B ngày 20/12/2017 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Tổng cục Cảnh sát kết luận: Khối lượng ma túy mà Huỳnh Thế C đã tàng trữ là 1,7229g loại MDMA và 0,2535g loại Ketamine.

Nội dung các bản Kết luận Giám định đúng quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT.BCA-VKSNDTC-TANDTA-BTP ngày 14/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT.BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP ngày 24/12/2007, đúng nội dung Công văn số 2101/C41-C44 ngày 03/7/2017 của Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an và Công văn 2955/CSĐT (C44) ngày 29/8/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an, Công văn số 4062/VKSTC-V4 ngày 11/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về trả lời kết luận giám định lên quan đến ma túy.

[4.2.1] Theo quy định tại Tiểu mục 3.6 Mục 3 Phần II Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999, hành vi tàng trữ là 1,7229 loại MDMA và 0,2535g loại Ketamine là ma túy ở thể rắn của bị cáo Huỳnh Thế C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[4.2.2] Hành vi bán nhiều lần ma túy cho Huỳnh Thế C của Lê Thái H và hành vi tàng trữ ma túy nhằm mục đích để bán của Lê Thái H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[4.3] Những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập đều hợp pháp. Hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4.4] Bản cáo trạng số 121/CT-VKS ngày 12/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Lê Thái H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và truy tố Huỳnh Thế C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] So sánh khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 với khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quyđịnh mức hình phạt từ 01 năm tù đến 05 năm tù, nhẹ hơn quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử áp dụng khung hình phạt từ 01 năm tù đến 05 năm tù để xét xử bị cáo Huỳnh Thế C.

[6] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự, trị an địa phương, xâm phạm sự độc quyền quản lý của Nhà nước. Các bị cáo đều là thanh niên mới lớn, nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm và tác hại của ma túy, nhưng vì hám lợi, không làm chủ được bản thân, đua theo bạn bè đi tìm sự kích thích, khoái cảm thông qua hành vi vi phạm pháp luật, đã tiếp tay gây ra tình trạng nghiện ngập trong cộng đồng, cho bản thân, ảnh hưởng đến công việc và kinh tế gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo nhằm giáo dục, răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung.

[7] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo; chưa có tiền án, tiền sự; nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm hình phạt cho các bị cáo.

[8] Áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 phạt bổ sung bị cáo Lê Thái H 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

[9] Đối với người tên Đại bán ma túy cho Lê Thái H, Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa đủ căn cứ để xác định. Đề nghị tiếp tục điều tra, nếu phát hiện và có căn cứ sẽ xử lý ở vụ án khác.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nếu có yêu cầu sẽ xử lý sau theo quy định của pháp luật.

[11] Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã thu giữ, còn lại sau giám định.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Masstel, vỏ màu xanh sử dụng số thuê bao 0898369347 của Huỳnh Thế C; 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE màu đen, sử dụng số thuê bao 0934835975 của Lê Thái H là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Số tiền 6.500.000đ thu giữ của bị cáo Lê Thái H, trong đó có 2.750.000đ tiền bán ma túy cho Huỳnh Thế C, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Trả lại cho bị cáo Lê Thái H số tiền còn lại là 3.750.000đ, nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[12] Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 và áp dụng điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 136, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo Lê Thái H,

Xử phạt: Bị cáo Lê Thái H (Thái) 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 08/6/2017.

Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

2/ Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 và áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 136, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo Huỳnh Thế C,

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thế C 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã tạm giam từ ngày 08/6/2017 đến 20/4/2018.

* Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nếu có yêu cầu sẽ xử lý sau theo quy định của pháp luật.

* Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

- Tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, gồm:

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, có ghi số vụ 2429/C45B ngày 17/7/2018, có chữ ký niêm phong của Nguyễn Phước Minh và Phan Thanh Tùng.

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, có ghi Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, niêm phong vụ số 3917/D, ngày 27/11/2017 có chữ ký niêm phong của Phan Thanh Minh và Hà Thị Phước Hiền.

+ 01 (một) phong bì giấy được niêm phong kín, có ghi Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, niêm phong vụ số 3917/C, ngày 27/11/2017 có chữ ký niêm phong của Phan Thanh Minh và Hà Thị Phước Hiền.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N ngày 19/7/2018).

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Masstel, vỏ màu xanh sử dụng số thuê bao 0898369347 của Huỳnh Thế C; 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE màu đen, sử dụng số thuê bao 0934835975 của Lê Thái H. (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N ngày 28/8/2017).

+ Số tiền 2.750.000đ của Lê Thái H.

- Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 3.750.000đ của Lê Thái H. (Theo Giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước số CT 0008691 ngày 28/8/2017 của Kho Bạc Nhà nước thành phố N)

Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo biết, được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2019/HSST ngày 14/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về