Bản án 103/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 103/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 642/2019/TLST-HNGĐ ngày 03/9/2019 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/10/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 138b/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12/11/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Kim H, sinh năm: 1994.

HKTT: Số 30, đường số 5, tổ 6, khu 3, ấp T, xã S, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. 

Liên lạc: Số 83, tổ 2, ấp Sa Cá, xã Bình An, huyện L Thành, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Sàn Thanh L, sinh năm: 1996.

HKTT: Số 30, đường số 5, tổ 6, khu 3, ấp T, xã S, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng (các đương sự vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo bản tự khai ngày 07/10/2019, chị Lê Thị Kim H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Sàn Thanh L sau thời gian tự nguyện tìm H và yêu thương khoảng 01 năm thì tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã S và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 02/5/2018.

Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng khi chị mang thai đến tháng thứ 5 thì phát sinh mâu thuẫn từ việc anh L không quan tâm đến gia đình, vợ chồng thường cãi nhau, sự việc kéo dài nhiều lần nên chị và anh L đã ly thân được 06 tháng kể từ khi nộp đơn. Trong thời gian ly thân, chị và anh L không ai liên lạc và chủ động hòa giải. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên chị đề nghị được ly hôn với anh L.

Về con chung: Có một con chung là cháu Sàn Gia Huy, sinh ngày 20/02/2019, hiện nay đang sống chung cùng chị. Ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Huy, tạm thời không yêu cầu anh L cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì bận công việc gia đình, đường xa và con nhỏ không có người phụ chăm sóc nên chị xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn anh Sàn Thanh L đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do nên không có trình bày.

Đi diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thủ tục hòa giải, thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định xét xử, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được Tòa án thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đơn khởi kiện xin ly hôn của chị H là có cơ sở chấp nhận nên đề nghị cho chị H được ly hôn với anh L. Về con chung: Giao cháu Huy cho chị H nuôi dưỡng, tạm thời anh L không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung đương sự trình bày không có, nên đề nghị không đặt ra xem xét. Về án phí: Chị H phải nộp án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị Lê Thị Kim H nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Sàn Thanh L, sinh năm: 1996, địa chỉ: Số 30, đường số 5, tổ 6, khu 3, ấp T, xã S, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì quan hệ tranh chấp của vụ án là “Ly hôn và tranh chấp nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom.

[2] Về yêu cầu khởi kiện:

2.1 - Về quan hệ hôn nhân:

Chị H và anh L tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện Trảng Bom được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 22 ngày 02/5/2018 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét trình bày của chị H nhận thấy: Chị yêu cầu được ly hôn với L và thực tế anh chị đã ly thân, mỗi người sống một nơi, đồng thời Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh L để làm việc, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh L vắng mặt thể hiện việc anh không có thiện chí hòa giải, đoàn tụ. Từ những căn cứ trên, xét mâu thuẫn giữa chị H với anh L là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H yêu cầu ly hôn với anh L là có cơ sở, phù hợp quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

2.2 - Về con chung:

Anh chị có một con chung là cháu Sàn Gia H, sinh ngày 20/02/2019, hiện nay đang sống chung cùng chị H và ly hôn chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, tạm thời không yêu cầu anh L cấp dưỡng. Mặt khác theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình thì con chung dưới 36 tháng tuổi giao cho mẹ nuôi nên chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị H.

2.3 - Về tài sản chung, nợ chung: Chị H trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 147, 220, 227, 228, 264 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Kim H về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con” với anh Sàn Thanh L.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H được ly hôn với anh Sàn Thanh L.

2. Về con chung: Giao cháu Sàn Gia H, sinh ngày 20/02/2019 cho chị Lê Thị Kim H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm thời anh Sàn Thanh L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Anh Sàn Thanh L được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung khi cần thiết các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Kim H phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 007062 ngày 26/8/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom. Chị Lê Thị Kim H đã nộp đủ án phí.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:103/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về