Bản án 103/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 103/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 925/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 73/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Mỹ Ng, sinh năm 1993; nơi thường trú: Ấp H, xã Đ, huyện M, tỉnh Kiên Giang; nơi tạm trú: số A, khu phố P, phường C, thị xã T, tỉnh Bình Dương, có mặt.

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn Ng, sinh năm 1991; nơi thường trú: Ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bạc Liêu; nơi tạm trú: số A, khu phố A, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25 tháng 3 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Võ Thị Mỹ Ng trình bày:

Bà Võ Thị Mỹ Ng và ông Huỳnh Văn Ng tự nguyện tìm hiểu tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện L, tỉnh Bạc Liêu theo giấy chứng nhận kết hôn số 151, ngày 06 tháng 12 năm 2013.

Sau khi kết hôn, bà Ng và ông Ng vào Bình Dương sinh sống và làm công nhân từ năm 2015 cho đến nay. Thời gian đầu bà Ng và ông Ng chung sống rất hạnh phúc cho đến năm 2017 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Ng thường xuyên uống rượu, bài bạc. Mỗi lần uống rượu thi ông Ng thường kiếm chuyện đánh đập bà. Ngoài ra, ông Ng cũng không quan tâm chăm sóc con cái, không chăm lo cho gia đình. Bà Ng và ông Ng sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông Ng vẫn không thay đổi. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Ng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Ng.

Về con chung: Trong quá trình chung sống bà Ng và ông Ng có một con chung tên Huỳnh Thị Diễm M sinh ngày 03 tháng 12 năm 2014, bà Ng yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Ng không yêu cầu ông Ng cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án không tống đạt được các văn bản tố tụng cho bị đơn do bị đơn thường xuyên vắng nhà. Theo kết quả xác minh tại Công an phường C, thị xã T, tỉnh Bình Dương: Ông Ng có đăng ký tạm trú tại số A, khu phố A, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Ng theo hình thức niêm yết công khai tại noi tạm trú của ông Ngo, Ủy ban nhân dân phường B và trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương nhưng ông Ng không gửi văn bản trình bày ý kiến về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà Ng và cũng không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa, bà Ng vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông Ng, về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, về con chung bà Ng yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Huỳnh Thị Diễm M sinh ngày 03 tháng 12 năm 2014 và không yêu cầu ông Ng cấp dưỡng nuôi con.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: bà Ngân được ly hôn với ông Ngoãn; về con chung: giao con chung tên Huỳnh Thị Diễm M sinh ngày 03 tháng 12 năm 2014 cho bà Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Ng không yêu cầu ông Ng cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương nhận định:

[2] Về tố tụng:

Bà Ng khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông Ng; ông Ng có nơi tạm trú tại khu phố A, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử nhưng vẫn vắng mặt, nên được xem là từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xét xử vắng mặt ông Ng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Ng và ông Ng kết hôn vào năm 2013, có đăng ký kết hôn ngày 06 tháng 12 năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện L, tỉnh Bạc Liêu nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa, bà Ng vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông Ng.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù qua xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa bà Ng và ông Ng chính quyền địa phương không nhận thấy mâu thuẫn gì, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, ông Ng đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án và đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng vẫn cố tình vắng mặt và cũng không có văn bản ý kiến gửi cho Tòa án nên xem như ông đã từ bỏ quyền trình bày để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và cũng chứng tỏ ông Ng không có thiện chí mong muốn gia đình được đoàn tụ. Ngoài ra, đầu năm 2019 bà Ng đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Ng nhưng bà đã rút đơn về để vợ chồng đoàn tụ, nhưng đến nay vẫn không đoàn tụ được và vợ chồng vẫn ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay, như vậy cho thấy vợ chồng không còn thương yêu, quý trọng, quan tâm lẫn nhau, người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc nhau.

Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn giữa bà Ng và ông Ng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc bà Ng yêu cầu được ly hôn với ông Ng là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Bà Ng và ông Ng có một người con chung tên Huỳnh Thị Diễm M sinh ngày 03 tháng 12 năm 2014. Tại phiên tòa bà Ng vẫn yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Ng cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy cháu M hiện đang sống chung với bà Ng, tính đến thời điểm xét xử (ngày 22 tháng 11 năm 2019) cháu M dưới 05 tuổi nên cần được sự quan tâm, chăm sóc và giáo dục từ mẹ. Ngoài ra, bà Ng có công việc và thu nhập ổn định. Do đó, để đảm bảo sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức nên giao cháu M cho bà Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Võ Thị Mỹ Ng về việc không yêu cầu ông Huỳnh Văn Ng cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về nội dung vụ án là có cơ sở nên chấp nhận.

[7] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 266; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Mỹ Ng đối với bị đơn ông Huỳnh Văn Ng về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Mỹ Ng được ly hôn với ông Huỳnh Văn Ng.

- Về con chung: Giao con chung Huỳnh Thị Diễm M, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2014 cho bà Võ Thị Mỹ Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Võ Thị Mỹ Ng không yêu cầu ông Huỳnh Văn Ng cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thi người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Võ Thị Mỹ Ng phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0035626 ngày 08 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:103/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về