Bản án 103/2017/HSST ngày 04/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 103/2017/HSST NGÀY 04/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 04 tháng 8 năm 2017 tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 74/2017/HSST ngày 23/5/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thành H; sinh ngày 04/10/1980 tại thành phố C, Quảng Ninh; ĐKHKTT, chỗ ở: Tổ HM, khu Đ2, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn Hồng H và bà: Đỗ Thị H; vợ: Hoàng Thị H sinh năm 1981, có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 07/2/2017, hiện đang tạm giam Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Thành H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 16 giờ ngày 07/2/2017, tại khu vực cổng trường tiểu học C thuộc tổ HM, khu Đ 2, phường C, thành phố C, Nguyễn Thành H có hành vi bán trái phép 01 túi ma túy loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng cho Vũ Minh T (Vũ Minh T và Tống Quý G góp tiền mua ma túy của Nguyễn Thành H để cùng sử dụng), khi T mang gói ma túy trên đến khu vực tổ B, khu C2, phường C, thành phố C trong lúc chờ G về nhà lấy nỏ để sử dụng gói ma túy thì bị công an phát hiện bắt và thu giữ vật chứng. Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành bắt khẩn cấp Nguyễn Thành H còn thu giữ 1,22 gam chất ma túy loại Methamphetamine, H khai để sử dụng nếu có ai mua thì bán.

Tại bản kết luận giám định số 147/GĐMT ngày 10/2/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ của Vũ Minh T là chất ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 0,18 gam, đã sử dụng hết trong quá trình giám định. Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ của Nguyễn Thành H là chất ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 1,22 gam, hoàn lại mẫu vật sau giám định là 1,05 gam. Tại bản cáo trạng số: 82/KSĐT ngày 22/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành H khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2015 đến đầu năm 2016 bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy đá, chiều ngày 07/2/2017 bị cáo gọi điện thoại nhờ anh Nguyễn Tuấn V, trú tại tổ MH, khu N, phường C, thành phố C mua hộ 01 túi ma túy đá với giá 2.000.000 đồng, sau khi có ma túy bị cáo đã sử dụng hết một phần, đến khoảng 15 giờ cùng ngày khi bị cáo đang ở nhà thì Vũ Minh T là bạn quen biết ngoài xã hội đã gọi điện thoại hỏi mua 01 túi ma túy đá giá 300.000 đồng, bị cáo đồng ý bán và hẹn với T đi đến cổng trường Tiểu học C để mua bán, sau đó bị cáo đi lấy túi nilon và sẻ số ma túy còn lại ra làm 02 túi bị cáo cầm theo và đi ra chỗ hẹn với T. Khi đến T đi cùng với 02 người, trong đó một người là bạn T và một người chạy xe ôm, tại đây bị cáo đã bán cho T một túi ma túy đá với giá 300.000 đồng, túi ma túy còn lại bị cáo cất trong túi quần soóc đang mặc, đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày khi bị cáo đang đi bộ trước cửa nhà thì bị công an bắt và thu giữ trong túi quần 01 gói ma túy và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, chiếc điện thoại này bị cáo dùng để liên lạc bán ma túy cho T, số tiền 300.000 đồng bán ma túy bị cáo đã ăn tiêu hết. Khám xét chỗ ở của bị cáo công an còn thu giữ được 01 ví giả da màu nâu, 950.000 đồng (là tiền bị cáo đi làm thuê mà có, không liên quan đến việc phạm tội), 01 túi giả da bên trong có 01 cân tiểu ly điện tử đã hỏng và 20 vỏ túi nilon, chiếc ví và túi giả da đều đã hỏng không còn giá trị sử dụng nên bị cáo không nhận lại. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng với hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt với mức án thấp nhất cho bị cáo.

Người làm chứng là các anh Vũ Minh T, Tống Quý G vắng mặt tại phiên tòa nhưng đều có lời khai tại hồ sơ thể hiện: Vào khoảng 15 giờ ngày 07/2/2017, T và G cùng nhau góp được số tiền 300.000 đồng, cùng đi xe ôm của anh Trịnh Văn H đến khu vực trường Tiểu học C để mua một gói ma túy đá của Nguyễn Thành H về sử dụng, sau khi mua được T cầm túi ma túy rồi cùng G đi xe của anh H về đến bến xe C, phường C. Trong lúc T và anh H chờ G xuống xe đi về nhà lấy nỏ để sử dụng ma túy thì T bị công an kiểm tra và thu giữ 01 gói ma túy.

Người làm chứng là anh Trịnh Văn H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại hồ sơ thể hiện: Anh H được chứng kiến việc công an kiểm tra, thu giữ vật chứng là gói ma túy T mua của Nguyễn Thành H.

Người làm chứng là anh Nguyễn Tuấn V vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại hồ sơ thể hiện: Anh V thừa nhận nhiều lần sử dụng chung ma túy với H nhưng ngày 07/02/2017 anh V không nhận số tiền 2.000.000 đồng để đi mua hộ ma túy đá về đưa cho H.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như về vật chứng và tài sản của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thành H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Thành H từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy số ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; Tịch thu tiêu hủy: 01 ví giả da, 01 túi giả da, 20 vỏ túi nilon và 01 cân tiểu ly điện tử. Buộc bị cáo phải nộp lại 300.000 đồng là tiền bán ma túy để sung quỹ nhà nước; Trả lại cho bị cáo số tiền 950.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo Nguyễn Thành H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng: anh Vũ Minh T, Tống Quý G (là những người trực tiếp mua ma túy của Nguyễn Thành H vào ngày 07/2/2017) anh Trịnh Văn H là người chứng kiến việc công an bắt, thu giữ vật chứng ngày 07/2/2017); Ngoài ra lời khai của bị cáo còn phù hợp với các chứng cứ sau: Biên bản về việc bắt người lập hồi 20 giờ 30 ngày 07/2/2017; Biên bản niêm phong vật chứng lập hồi 17 giờ 35 phút và hồi 21 giờ 05 phút ngày 07/2/2017; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu lập hồi 16 giờ 30 phút ngày 07/2/2017; Biên bản khám xét lập lập hồi 22 giờ 00 phút ngày 07/2/2017 của cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố C; Bản Kết luận giám định số 147/GĐMT ngày 10/2/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh; Biên bản đối chất. Với các chứng cứ trên cùng các tài liệu khác cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Thành H đã phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Mặc dù bị cáo đã bán 01 liều ma túy loại Methamphetamin trọng lượng 0,18 gam cho Vũ Minh T và Tống Quý G vào hồi 16 giờ 15 phút ngày 07/2/2017, khi bắt giữ bị cáo cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố C còn thu giữ trên người bị cáo 01 gói ma túy loại Methamphetamin trọng lượng 1,22 gam đây là hệ quả tất yếu của việc bị cáo đã mua một gói ma túy với giá 2.000.000 đồng trước đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy bị cáo Nguyễn Thành H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ nên chấp nhận toàn bộ lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước và còn gây ra những tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, gây mất trật tự trị an, cản trở tới việc thực hiện các chính sách kinh tế, làm gia tăng tệ nạn nghiện hút, sử dụng ma túy trong cộng đồng, là nguyên nhân phát sinh các tội phạm xã hội khác. Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy đá (Methamphetamine) cũng như quy định của pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi mua bán trái phép các chất ma túy nhưng chỉ vì lợi ích ích kỷ của bản thân, muốn làm giàu nhanh chóng mà không phải mất sức lao động nên đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã tiếp tay cho các đối tượng buôn bán ma túy lớn hoạt động, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Để tăng cường biện pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố nói chung cũng như để giáo dục, trừng trị riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bỏ đi từ trước khi bị bắt, bị cáo có một con còn nhỏ sinh năm 2016 đang nhờ gia đình nuôi dưỡng; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được tính nhân đạo của pháp luật. Nhưng dù xem xét đến đâu thì việc bắt bị cáo Nguyễn Thành H phải cách ly khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo và giáo dục bị cáo và góp phần phòng chống tội phạm nói chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Thành H là người nghiện chất ma túy, không nghề nghiệp nên không phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, thu giữ của Vũ Minh T 01 gói ma túy (Methamphetamin) sau giám định không hoàn lại mẫu vật; Thu giữ của Nguyễn Thành H 01 gói ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 1,22 gam, hoàn lại mẫu
vật sau giám định là 1,05 gam cần tịch thu tiêu hủy. Cơ quan cảnh sát điều tra còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone bị cáo sử dụng vào việc liên lạc để mua ma túy nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước; Ngoài ra còn thu giữ: 01 ví giả da, 01 túi giả da, 01 cân tiểu ly điện tử đều đã hỏng không còn giá trị sử dụng cùng với 20 vỏ túi nilon cần tịch thu tiêu hủy. Bị cáo đã bán 01 gói ma túy cho Vũ Minh T – Tống Quý G với giá 300.000 đồng, mặc dù bị cáo đã ăn tiêu hết nhưng đây là tiền do phạm tội mà có nên cần buộc bị cáo phải nộp lại để sung quỹ nhà nước; Cơ quan cảnh sát điều tra còn thu giữ của bị cáo số tiền 950.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo (số tiền 300.000 đồng nộp lại sung quỹ nhà nước được trừ vào số tiền này).

Bị cáo Nguyễn Thành H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vũ Minh T và Tống Quý G có hành vi mua trái phép chất ma túy của Nguyễn Thành H để sử dụng, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; Nguyễn Tuấn V nhiều lần sử dụng ma túy cùng H, Công an thành phố C đã ra Quyết định xử phạt hành chính.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Thành H 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 07/02/2017).

Áp dụng: Khoản 1, 2 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 (mét) phong bì còn nguyên dấu niêm phong số 147/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh, bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5, màu trắng, Model: A1332 EMC 380A FCC ID: BCG-E2380A IC; 579C- E2380A, kèm 01 sim. Tịch thu tiêu hủy: 01 ví giả da màu nâu đã cũ, túi giả da màu đen đã cũ, 01 cân tiểu ly điện tử màu nâu đã cũ, 20 vỏ túi nilon. Buộc bị cáo Nguyễn Thành H phải nộp lại số tiền 300.000 đồng do phạm tội mà có, được trừ trong số tiền 950.000 đồng đã thu giữ của bị cáo H; Trả lại cho bị cáo số tiền 650.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội. Tiền và tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 124/BB-THA ngày 16/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố C.

Căn cứ Khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Nguyễn Thành H phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2017/HSST ngày 04/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về